Page 145 - Phát Triển Bền Vững Và Chăm Sóc Sức Khỏe Ở Miền Núi
P. 145
không đến có, để giải quyết các nhu cầu bức bách của người dân
nông thôn. Ở Bộ Y tế đã thành lập Nha y tế nông thôn, nhưng chí
* hoạt động được một thời gian ngắn và phải giải thể do tình hình
chiến tranh và nhiều nguvên nhân khác. Mạng lưới y tế nông thôn
được xây dựng theo các phương hướng:
a.I. Nhà nước đào tạo cán bộ, tuyển từ các thanh niên người
bản địa, có trình độ văn hoá thích hợp, các bà mụ đào tạo thành
y tá, nữ hộ sinh, thời gian đào tạo nâng dần từ một tháng lên ba
tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng... Khả năng công tác là chủng
chống đậu mùa, chăm sóc sơ bộ các vết thương chiến tranh và do
sinh hơạt, chữa các bệnh thông thường bằng thuốc tây y, thuốc
nam, dỡ đẻ thông thường, chuyển các bệnh nhân khó, và nặng về
tuvến sau và đi kèm châm sóc bệnh nhân dọc đưòng, hàn giao
bệnh nhân xong mới về, v.v...
Từ nãm 1960, Bộ Y tế tuyển các y tá, nữ hộ sinh làm việc tại
xã, có thâm niên công tác 3 năm, tập trung bổ túc vãn hóa một
năm dạt mức tương đương hết lớp 7, đào tạo theo chương trình
y sĩ (đa khoa hay phụ sản) 2 nẫm. Sau khi tốt nghiệp, các y sì lại
vé công lác ở trạm y tế xả bản địa. Từ năm 1969, Bộ Y tế triệu
tập các y sĩ đã có thâm niên công tác tốt từ 3 năm đến 5 năm,
lập trung học bổ túc văn hóa hết lớp 10 phổ thông; sau 3 năm
học chuyên môn ở haí phân hiệu Đại học Thái Nguyên và Thái
Binh theo chương trình Bác sĩ Y khoa (đa khoa, phụ sản, y học
dân tộc). Từ năm 1975 tạm dừng chủ trương đào tạo theo phương
thức này.
Ngoài việc đào tạo, Nhà nước cung cấp các trang thiết bị
chuvên môn thích hợp cho trạm y tế. Nhà nước chỉ dạo nội dung
v à th e o d õ i đ á n h g iá k ết q u ả h o ạ t đ ộ n g c h â m s ó c sứ c k h ó e ban
146