Page 17 - Phát Hiện Và Điều Trị Bệnh Thiếu I Ốt
P. 17
Bởi vậy, người dân có thể sử dụng muối i-ốt mà
không sỢ bị thừa i-ô't. Lượng i-õt được đưa vào muối đế
người dân sử dụng đã được tính toán để cả những người
thực sự không bị thiếu i-ô"t vẫn sử dụng an toàn. Những
người có biểu hiện bệnh lý đặc biệt tạm thòi không nên
sử dụng muôi i-ô"t (hay muối thường) sẽ được các bác sỷ
tư vấn trong quá trình khám bệnh.
I-ốt là một vi chất dinh dưỡng, dù chỉ một lượng nhỏ,
nhưng rất cần thiết cho cơ thể. Trẻ em và phụ nữ trong
độ tuổi sinh đẻ là đôi tưỢng chính, có nguy cơ cao bị
thiếu i-ô"t. Bướu cổ và đần độn là hai biểu hiện hay gặp
liên quan đến thiếu i-ốt. Bưóu cổ có thể xuất hiện ở bất
kỳ giai đoạn nào trong cuộc đòi, trong khi đó, hiện
tượng đần độn xuất hiện ngay từ lúc bào thai nếu người
mẹ trong tình trạng thiếu i-ốt nặng.
Sau 10 năm thực hiện dự án mục tiêu quốc gia
Việt Nam về phòng chông bướu cổ (1995 - 2005), tỷ lệ
phủ muôi i-ôl ngày một tăng. Tỷ lệ bướu cổ ở học sinh
từ 8 - 12 tuổi giảm xuông rõ rệt từ 22,4% năm 1993
xuông còn 3,6% năm 2005.
Để bổ sung i-ôt, mỗi người có thể dùng hẹ 150g, thịt
ngao lOOg xào ăn hằng ngày. Trong lOOg thịt ngao khô
có tới 240pg i-ốt. Thịt ngao giúp thanh nhiệt tiêu trừ
dòm, thường dùng chữa phù thũng, vàng da, bưóu cổ.
Hẹ làm ấm tỳ vị, ôn thận bổ dương, đồng thòi có thể hạn
chế tính lạnh của thịt ngao.
Mặc dù chỉ là một vi chất có mặt trong cơ thể với
một lượng rất nhỏ, khoảng 0,00004% thể trọng (15 -