Page 15 - Phát Hiện Và Điều Trị Bệnh Thiếu I Ốt
P. 15

già. Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hằng ngày trẻ em
        dưới  6 tuổi cần  90Ịig i-ốt;  trẻ  6  -  12  tuổi cần  120}ig i-ốt;
        trẻ em ở độ tuổi dậy thì và người trưởng thành cần lõOịag
        i-ổt; phụ nữ mang thai, nuôi con bằng sữa mẹ cần 250pg
        i-ốt (cho cả mẹ và bào thai hoặc con). Theo Tổ chức Y tê

        Thế giới  (WHO),  lượng i-ốt bài xuất qua nưóc tiểu ở trẻ
        em  tuổi  học  đưòng  dưới  lOOpg  trong  1  lít  nưóc  tiểu  là
        thiếu i-ốt, dưối 50pg trong 1 Ht nước tiểu là thiếu mức độ
        trung  bình  và  dưới  20pg  trong  1  lít  nước  tiểu  là  thiếu
        nặng  (ở phụ nữ có  thai  nếu  i-ốt bài  xuất  qua  nước  tiểu
        dưới  150pg trong  1  lít nước tiểu là thiếu i-ốt).  Quá trình
        thu  nhận  i-ốt  hằng  ngày  cao  nhất  mà  cơ thể  dung nạp
        được  là  lOOOpg  và  mức  thu  nhận  i-ốt  ở  người  trưởng
        thành hằng ngày không nên vượt quá 500pg.  Lượng i-ốt
        bài  xuất  qua  nước  tiểu  ở  trẻ  em  trên  2OO|0.g  trong  1  lít

        nước  tiểu  phản  ánh  thu  nhận  i-ốt  cao  hơn  nhu  cầu  và
        trên 300pg trong 1 lít nước tiểu là thừa i-ốt.
            Các  nhà  khoa  học,  chuyên  gia  dinh  dưỡng  học  của
        nước ta đang nghiên cứu về tình trạng thiếu hay thừa i-
        ốt ở người dân? Tại các vùng núi cao, xa xôi tình trạng
        thiếu i-ốt được biểu hiện rõ.  Điều này càng được khẳng
        định  qua  chương  trình  phòng  bệnh  bằng  muối  i-ốt  từ
        những năm  1970 cho đến nay - bệnh bướu cổ của trẻ em
        chỉ  còn  dưới  5%  (con  sô" trước  khi  phòng  bệnh  là  30  -
        50%) và chứng đần độn mối do thiếu i-ốt không còn xuất
        hiện. Tại đồng bằng Nam bộ, các chuyên gia nghiên cứu
        người Mỹ đã công bô" bệnh bướu cổ lên đến 34% (1959).
        Năm  1993, Bộ Y tê vói sự hỗ trỢ của chuyên gia của Tổ
   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20