Page 36 - Những Trạng Nguyên Đặc Biệt Trong Lịch Sử Việt Nam
P. 36
... tTvng lich sử V iêt N a m 3 7
Viên quan biết trạng đã gián tiếp bày cho giải câu đố
theo cách xâu chỉ, bèn nhẩm thuộc bài ca về tâu vua.
Quan sứ chuẩn bị đầy đủ nghi thức đón Trạng về
triều.
Khi đến kinh, vua đưa bài thơ của sứ Nguyên cho
Trạng xem và hỏi người Nguyên Mông định nói
Trạng chỉ đọc lướt qua, đã phát hiện toàn bộ nội dung
của bài thơ và Trạng Hiền cầm bút viết ra một chữ và
giải rằng:
- Câu đầu có hai chữ nhật (ngày). Đọc xuôi, đọc
ngược, hai chữ đó đều bằng đầu nhau. Câu thứ hcd,
đọc ngược, đọc xuôi, đọc ngang, đọc dọc ^ đi nữa thì
cũng do bốn chữ sơn (núi) ghép lại mà thành. Câu thứ
ba là hai chữ vương (vua). Hai chữ viíơng, đọc dọc và
đọc ngang đều ở trong bốn cạnh. Bốn cạnh dính liền
nhau tượng trưng biên giới của một nước. Câu thứ tư
là bốn chữ khẩu (miệng), đọc ngcmg. đọc dọc cũng
giống nhau. Bốn chữ khẩu dính vào nhau.
Tóm lại cả bốn câu thơ chỉ tả một chữ điền (ruộng).
Lời giải của ông trạng non làm cho cả triều đình mát
mặt, còn sứ thần chỉ đành báỉ phục sự thông minh của
người dân đất Việt. Từ đó danh tiếng của Trạng vang
lừng hai nước. Sứ Tàu thấy rằng Đạl Vỉệt có người tài về
tâu với vua Tàu phong cho Trần cảnh là An Nam Quốc
Vương. Nước ta thoát được một lần xâm lăng đe doạ. Sau
đó vua Trần phong cho trạng là: Đô ngự sử kiêm Đại
tướng công, kiêm Công bộ Thượng thư.
Lần thứ haỉ vua lạỉ nhận được tối hậu thư của vua
Tàu trong đó có hai chữ ‘Thanh thuý”. Vua hỏl Trạng,