Page 35 - Những Trạng Nguyên Đặc Biệt Trong Lịch Sử Việt Nam
P. 35
36 T^Lrrng T ia n g n^iiỵên dăc l)iêl...
bếp nhìn ra, miệng tủm tỉm cười. Quan bèn đọc trêu:
“Ngô văn quân tử, viễn bào trù, hà tu mị táo".
Nghĩa là: ta nghe người quân tử thường lánh xa nơi bếp
núc, sao lại đi nịnh ông bếp?
Nghe vậy trạng trả lời ngay:
“Ngã bản hữu quan cư đỉnh nạl, khả tạm điều
canh". Nghĩa là: ta vốn là chức quan hàng Tể tướng,
nhưng hãy tạm nêm canh.
Trong câu của quan có chữ “bào trù” (bếp núc” và
“mị táo” có nghĩa là “nịnh bếp núc”. Còn trạng Hiền đá
dùng chữ “đỉnh nại” (tể tướng) và “điều canh” cũng là
“lỀun tể tướng” để chọi lại.
Quan rất tíián phục tài ứng đối của ữạng, rồi thuật
lại cho trạng nglie nliững điều sứ Nguyên thách đố và
truyền chỉ dụ của vua vời trạng về kinh để giúp triều
đình. Trạng nghe quan nói, cứ Ún lặng chẳng trả lời.
Quan van vỉ mãi, ữạng mới nói: ‘Trước kia, vua bảo ta
không biết lễ phép, nay chính vua cũng không hiểu lễ là
Thì ra, vì quan sứ đi vội và cũng có thể xem ữạmg là
trẻ con. nên đã quên mất cả nghi thức đón trạng, như
phải có chiếu chỉ nhà vua, có xe ngựa chu tất...
Quan sứ chào trạng, lên ngựa quay trở lại kinh,
bỗng nghe mấy trẻ trong làng hát to:
“Tích tịch tang, tích tịch tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thì lấy giấy mà bưng
Bên thì bôi mật kiến mừng kiến sang
Tích tịch tang, tích tịch tang!”