Page 72 - Bài Văn Mẫu
P. 72

II.  BÀI LÀM
         Truyện  ngắn  Vợ  nhặt của  nhà  văn  Kim  Lân  và  truyện  ngắn  Vợ  chồng A
      Phũ của nhà văn Tô  Hoài là những bức tranh thu nhỏ về hiện thực xã hội Việt
      Nam trong thời kì hấp hối của chế độ thực dân, phong kiến trước Cách mạng
      tháng  Tám  1945 và  trong  cuộc  kháng  chiến  chống  Pháp trường  kì.  Bao phủ
      lên  những bức tranh đó  là gam  màu xám  lạnh, thê  lương của cuộc sống khốn
      đốn, cùng cực của tầng lớp dân nghèo ở miền xuôi và  miền ngược.  Kim  Lân,
      Tô Hoài tập trung thể hiện sô' phận bất hạnh của số đông phụ nữ - những nạn
      nhân đáng thương qua hình ảnh bà cụ Tứ, người “vợ nhặt” và Mị - cô “con dâu
      gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra.
         Nội dung tác phẩm  Vợ nhặt kể về cuọc sống  bức bối, ngột ngạt của nhân
      dân  ta  năm  1945  với  nạn  đói  khủng  khiếp  làm  chết  hơn  hai  triệu  người.  Đó
      chính là hậu quả chính sách cai trị dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật
      ỏ  Việt  Nam.  Cũng  như một số tác  phẩm  khác viết về  nạn  đói,  ngòi  bút Kim
      Lân  chứa  chan  thương  cảm  trước  số  phận  bất  hạnh  của  những  con  người
      nghèo khổ trong xã hội đương thời, nhất là đối với phụ  nữ. Nhân vật bà cụ Tứ
      mẹ  anh  Tràng  và  chị  “ vợ  nhặt”  được tác  giả  miêu  tả  bằng  sự  thương  cảm
      chân thành đã gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
         Tội nghiệp thay cho người con gái mà anh Tràng “nhặt” về  làm “vợ” I Sinh
      ra làm  người, ai cũng có một cái tên dù  đẹp hay xấu. Thế nhưng chị ta không
      có  đến  một cái  tên  để  gọi.  Không  tên,  không  tuổi,  không  cha  mẹ,  anh  em.
      Không ai biết gốc gác quê  hương, nhà cửa của chị ta ở đâu. về  hình thức, chị
      ta giống như bao kẻ đói khát khác:  ...áo quần tả tơínhư tổ đỉa...  trên cái khuôn
      mặt lưõi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt...  Chị là hiện thân của hàng triệu
      nông  dân  bần  cùng,  tha  phương  cầu  thực  kiếm  sống  qua  ngày,  để  rồi  gục
      chết bất cứ lúc nào nơi đầu đường xó chợ.
         Chị nhận  lời làm vợ anh Tràng giống  như một trò đùa,  hay nói như tác giả
      là chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai bận giữa chị với Tràng, người đàn ông
      nghèo  khổ  làm  nghề  kéo xe thuê.  Gặp  lại Tràng, chị ta đang đói  lắm  nên sỗ
      sàng  vòi  anh  đãi  ăn  bánh  đúc.  Chị  cắm  cúi  ăn  Hển  một chập  bốn  bát bánh

      đúc. Ăn không kịp thở, ăn mà không nói tiếng nào. Ăn như thế là đói đã lâu rồi
      nên quên cả ý tứ, sĩ diện, thẹn thùng. Nhìn cảnh ấy, Tràng động lòng thương,
      bèn  bảo:  Này nói đùa chứ có  về  vôi tở thì ra  khuân  hàng  lên  xe  rồi cùng  về.
      Tưởng  nói giỡn chơi,  ai dè  chị ta theo về thật khiến  anh chợn,  nghĩ' thóc gạo


                                                                             71
   67   68   69   70   71   72   73   74   75   76   77