Page 73 - Bài Văn Mẫu
P. 73

này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không,  lại còn đèo bòng.  Một
      người  đàn  ông  mới  quen  sơ  sơ  đôi  lần,  nay  hào  phóng  đãi  một  bữa  no  nê,
      ngoài ra chẳng biết tí gì về anh ta; chỉ nghe nói là chưa có vợ, ai biết thật giả
      thế  nào,  ấy thế  mà  chị ta dám  đi  theo  mà  không  hề  đắn  đo,  sợ  hãi.  Có  liều
      lĩnh,  nhẹ  dạ  quá  chăng ?  Mặc kệ I  Trước mắt, cứ theo anh ta để được ăn  cái
      đã,  mọi  chuyện  tính  sau.  Vợ  chồng  là  chuyện  lâu  dài,  trong  tình  cảnh  sống
      nay  chết mai,  biết thế  nào  mà  nói trước.  Có  lẽ  chị  ta chỉ nghĩ đơn  giản  như
      vậy. Thế là Tràng đã “nhặt” được “vợ”, giống như nhặt được một vật gì đó  rơi
      trên  đường (!).  Tội  nghiệp  biết  bao  nhiêu  cho  người  “ vợ  nhặt”  ấy,  vl  xã  hội
      phong kiến khinh bỉ và không chấp nhận loại “vỢ” theo không như vậy.

         Chị ta theo Tràng về  cái xóm  ngụ  cư:  Ngã  tư xóm  chợ  về chiều càng xác
      xơ,  heo hút.  Từng trận gió  từ cánh đồng thổi vào,  ngăn ngắt.  Hai bên ơãy phố,
      úp súp,  tối om,  không nhà  nào  có  ánh đèn,  lửa.  Dưới những gốc đa,  gốc gạo
      xù  xì,  bóng  những người đói dật dò  đi lại lặng  lẽ  như những bóng  ma.  Tiếng
      quạ  kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên  từng hổi thê  thiết.  Quả  là
      một khung cảnh ngập tràn tử khí! Con người đang mấp mé bên vực thẳm của
      cái chết.

         Về đến nhà Tràng, chị “vợ nhặt” cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư
      khư cái thúng, mặt bần thần. Tràng mời ngồi, sao chị ta lại không dám ngồi cho
      đàng hoàng, ngay ngắn? Thì ra cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy là cái thế
      của lòng chị, đời chị. Chị băn khoăn không biết chỗ này có phải là chỗ của chị
      hay  không ?  Mái  nhà  xa  lạ  này  liệu  có  phải  là  chỗ  dung thân  của chị ?  Căn
      nhà xơ xác, dúm dó của mẹ con Tràng chắc cũng không khỏi làm cho chị thất
      vọng. Đúng là cảnh “đò nát đụng nhau”, không biết được mấy ngày?! Mặt chị
      bần thầnv] mải nghĩ đến chuyện thành vộ bỗng dưng của mình. Nó là thực mà
      cứ như không  phải thực.  Làm vợ,  làm  dâu  rnà thảm  hại đến thế này ư?!  Lấy
      chồng, hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái, chị có được hưởng chút nào
      đâu?  Buồn  lắm!  Tủi  lắm!  Nỗi  buồn  tủi  không  thể  nói  thành  lời.  Trăm  mối
      ngổn  ngang trong lòng.  Nỗi đau  không trào ra theo nước mắt mà chảy ngược
      vào tim nên càng đau, càng tủi.  Nhà văn  Kim  Lân viết về  người “vợ nhặt” với
      ngòi bút chan chứa xót thương. Trong chế độ phong kiến thực dân thời ấy, có
      bao  nhiêu  người  phụ  nữ  phải  chịu  thân  phận  bất  hạnh  như thế?  Ý  nghĩa tố
      cáo hiện thực xã hội, ý nghĩa nhân đạo sâu xa của tác phẩm ẩn chứa trong số
      phận của nhân vật đáng thương này.


      72
   68   69   70   71   72   73   74   75   76   77   78