Page 36 - Lý Thường Kiệt
P. 36

Chương I

                                   GỐC TÍCH




          1.  Gốc tích

          Lý Thường Kiệt quê phường Thái Hòa, ở trong thành Thăng Long, phía
      hữu (VĐUL) nghĩa là phía tây (HVDĐC). Thái Hòa cũng là tên một núi nhỏ
      ở phía tây trong thành Thăng Long, bây giờ, ở phía nam đê Bách Thảo, gần
      chỗ rẽ xuống trường đua ngựa, Lý Thường Kiệt có nhà ở gần núi ấy.
          Tuy là họ Lý, nhưng ông không phải là người hoàng tộc. Theo bia NBS,
      có chỗ chép tên húy ông là Tuấn, và nói Thường Kiệt chi là tự mà thôi. Nhữ
      Bá Sĩ bàn rằng có lẽ ngày xuất thân mới dùng tự làm tên.
          Cha, tên An Ngữ, sung chức Sùng ban lang tướng*^’ ở triều Lý. (VĐUL).
          Mẹ, họ Hàn. Năm hai mươi tuoi sinh Thường Kiệt. Ay vào năm Thuận
      Thiên thứ 10 (1019) đời Lý Thái Tổ. Sau lại sinh Lý Thường Hiến, mà có chỗ
      cũng gọi là Thường Hiển. (NBS).
          Khoảng niên hiệu Thiên Thành, đời Lý Thái Tông, cha đi tuần biên địa,
      ở Tượng Châu thuộc Thanh Hóa, bị bệnh rồi mất vào năm Tân Mùi (1031).
      Thường  Kiệt  bấy  giờ  mười  ba  tuổi,  đêm  ngày  thương  khóc  không  dứt.
      (NBS).
          Chồng cô, là Tạ Đức thấy thế, đem lòng thương và dỗ dành. Nhân đó

      hỏi ông về chí hướng, ông trả lời: "Về văn học, biết chữ để ký tên là đủ. về
      võ học, muốn theo Vệ Thanh, Hoắc Khứ®, lo đi xa vạn dặm để lập công, lấy
      được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ. Đó là sở nguyện". Tạ Đức
      khen là có chí khí, bèn gả cháu gái tên là Thuần Khanh cho ông, và dạy cho
      học các sách binh thư họ Tôn, họ Ngô.
         Thường Kiệt đêm ngày học tập. Đêm đọc sách, ngày tập bắn cung, cưỡi
      ngựa, lập doanh, bày trận. Các phép binh thư đều thông hiểu cả. Tạ Đức lại


                                        41
   31   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41