Page 21 - Lý Thường Kiệt
P. 21
theo ngày tháng, chứ không chia loại; cho nên gọi là "trường biên". Lý Đào đã
dùng rất nhiều tài liệu nguyên truớc mà nay không còn, trích những việc xảy ra
từng ngày, biên vào một phiếu, rồi bỏ phiếu ấy vào một hòm riêng. Xong, sao
lại thành sách. Nhu vậy đuợc hơn 4.400 việc, thuộc chín đời vua Tống.
Những văn tự Lý Đào dùng có Thực lục của các đời vua Tống tức là theo
công văn, giao cho sử quán chép, Thời Chính lục, Nhật lục tức là lục chép lời
nói, việc làm của vua, do viện Thời Chính, Nhật Lục ở cạnh vua chép hằng
ngày, và ghi những cử chi, tu tuởng riêng của vua. Hai loại này rất quý mà
nay không còn đủ hay đã mất.
Lý Đào lại dùng các mộ chí, tức là bài bia kể sự nghiệp để ở mộ các vị
đại thần, do các đại nho đuơng thời soạn. Mộ chí các tuớng đánh ta như
Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt đã được dùng.
Một loại văn nữa rất quý là các tư kỷ của các nhà chức trách, như tư kỷ
của Vương An Thạch, Tư Mã Quang, Tăng Bố; như Chinh nam nhất tông văn
tự của Quách Quỳ.
Các văn tập của các đại nho đương thời, không có quyển nào Lý Đào
không đọc tới, và đã được trích lục vào trong sách TB. Một phần các văn ấy
nay còn, ta có thể khảo thẳng và so sánh.
Nói tóm lại, sách TB là một kho tài liệu, cực đầy đủ; tuy chưa phải là sử,
nhưng nhờ sách ấy mà ta có thể viết sử.
Lý Đào là ai? TS liệt truyện cho ta biết rõ ràng, ông người Mỵ Châu, đậu
tiến sĩ năm Thiệu Hưng thứ 8 (1138). Xuất sĩ, ông làm các chức như tri
huyện, tri châu. Trong lúc làm quan, ông thấy sách Tư trị thông giám của Tư
Mã Quang, nên muốn tiếp tục công việc ấy. Không ở sử quán, mà làm công
việc sử rất khó. Muốn được vua để ý tới, ông bắt đầu soạn Bách quan côìig
khanh biểu dâng lên. Năm Càn Đạo thứ 3 (1167), được vua triệu về kinh.
Năm sau ông đã dâng lên phần đầu sách TB, từ đời Kiến Long đến đời Trị
Bình (960-1067) gồm 108 quyển (cách chia quyển lúc đầu khác bây giờ).
Năm 1169, ông được bổ vào Bí thư cục, coi viện Khởi cư xá và kiêm chức
kiểm thảo viện Thực lục. Thế là ông đã được một chức thích hợp với xu
hướng ông. Nhưng vì ông nói mất lòng tể thần, nên phải xuất ngoại.
23