Page 22 - Lý Thường Kiệt
P. 22
Năm đầu Thuần Hy (1174) ông đuợc về kinh, nhưng sau lại phải đi xa.
ít lâu, ông được về Sử quán, làm biên tu viện Thực lục. Trong thời kỳ ấy,
ông vẫn tiếp tục soạn nối sách TB. Cho nên sau, tuy phải xa kinh, ông cũng
soạn xong phần Bắc Tống. Năm 1180, ông dâng toàn sách lên vua Tống
Hiếu Tông, vua sai để sách tại Bí các.
Tự xét sách mình, Lý Đào đã nói "thà chịu chê là bề bộn hơn bị chê là sơ
lược". Vua Tống cũng khen "sách này thật không thẹn với sách Tư Mã
Thiên", rồi bổ ông làm Phu vãn lâu học sĩ và coi làm quốc sử.
Ông xin về hưu năm Thuần Hy thứ 11 (1184) và mất năm ấy.
Các danh nho được đọc sách TB, đều khen ngợi và thán phục.
Bây giờ đọc phần còn lại, ta không khỏi sửng sốt về công phu vĩ đại mà
một viên quan bé, phải thuyên chuyển nay đây mai đó, mỗi lần phải mang
theo tài liệu đi đến nghìn dặm, đã cố gắng trong 40 năm, để làm xong bộ
sách khổng lồ!
Sách rất to, ít ai chép lại nổi; cho nên không mấy ai được đọc. Đến đời
Minh Thành Tổ (1405-1424) sách được chép vào bộ Vĩnh Lạc đại điển) nhưng
cũng chỉ để trong Bí các mà thôi. Đến đời Thanh Thánh Tổ, niên hiệu
Khang Hy (1662-1721) mới được sao vào bộ Tú" khố toàn thư, và do đó mới
được truyền bá.
Nhưng bấy giờ sách đã khuyết mất ba khoảng: khoảng đầu, 4 năm, từ
tháng 4 năm Trị Bình thứ 4 đến tháng 3 năm Hy Ninh thứ 3 (1067-1070);
khoảng thứ hai, gần 4 năm, từ tháng 7 năm Nguyên Hữu thứ 8 đến tháng 3
năm Thiệu Thánh thứ 4 (1067-1097); và đoạn cuối là hai đời Huy Tông
(1101-1125) và Khâm Tông (1126). Phần còn lại chia làm 520 quyển.
Đời Quang Tự thứ 7 (1881), có viên tuần phủ tỉnh Chiết Giang là Đàm
Chung Lân đem khắc in. ông tìm được một bản khá đầy đủ như bản Tứ khố
toàn thư và hai bản đời Tống nhưng khuyết nhiều, ông so sánh cẩn thận với
bản để ở Bí các và các bản sao khác, rồi sai khắc. Nhờ đó nay có bản in rất
đẹp và ít sai còn lưu truyền. Tôi đã dùng bản ấy. Sau này tôi dẫn chứng, có
biên rõ số quyển, số trương theo đó.
24