Page 198 - Lý Thường Kiệt
P. 198
LÝ THƯỜNG KIỆT
Sách TB chép: "Giặc mới đặt phục binh ở cửa ải Giáp Khẩu, để đón
quân ta. Quỳ biết, nên đi đuờng tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh mà tiến. Bèn tới
sông Phú Luơng" (TB 279/22a).
Theo SK, thì Tống sử và các sách khác chép rằng: "Quách Quỳ tiến
đóng ở ải Quyết Lý, rồi tự đưa binh sang phía tây, tiến đến sông Phú
Lương".
Nếu mở bản đồ vùng này ra xét, ta phải nhận rằng dãy núi Đâu Đỉnh
nói trên chắc là dãy núi Bắc Sơn. Vả chăng hai chữ Đâu Đỉnh có nghĩa là
đỉnh đâu mâu, tức là cái đỉnh bằng kim loại, mà người ta cắm trên mũ. Núi
đá lèn, có đỉnh lô nhô như mũi đâu mâu sắp thành hàng, có thể có tên là
Đâu Đỉnh Lĩnh. (V/cth 2).
Vậy ta chắc rằng, sau khi không dám qua ải Giáp Khẩu; Quách Quỳ
đem đại quân hướng về phía tây, vượt qua dãy núi Bắc Sơn để ra chỗ cao
nguyên ở vùng Yên Thế. Quỳ đã theo đường tắt qua xã Vạn Linh.
Thường Kiệt không ngờ quân Tống có thể đem đại quân qua đường
hẹp ấy, nên chỉ để một ít quân giữ. Tướng tiên phong Tu Kỷ đưa kỵ binh đi
trước. Kỷ gặp một đoàn quân ta chừng vài nghìn người. Quân ta đánh rất
gắt. Kỷ phải đánh hết sức mới ra khỏi núi. (Theo lời chiếu kể công Tu Kỷ,
ngày Q. Vi, 6-8 năm Đinh Tỵ, DL 26-8-1077; TB 284/4a).
Tiền quân qua lọt. Đại quân kéo tràn theo sau. Một mặt, tiến xuống bờ
sông Phú Lương, tức thượng lưu sông cầu, thuộc địa phận Thái Nguyên
ngày nay. Một mặt, tiến sang phía đông, tới phía nam ải Giáp Khẩu. Quân
Lý nấp ở ải bị bọc bao lưng, nên lật đật rút lui vào miền núi động Giáp để
tháo lui về phía đông nam, liên lạc với hữu dực đóng ở vùng Vạn Xuân.
Sau khi quân Lý phải bỏ ải Giáp Khẩu, quân Tống kéo tràn qua đó và
thẳng tới sông Đào Hoa. Chúng qua sông ấy liên lạc với quân đã qua dãy
núi Đâu Đinh. Rồi, chia nhau đóng dọc bờ bắc sông Như Nguyệt (trung lưu
sông Cầu).
Trong lúc ấy, đạo quân Khúc Trân cũng từ Quảng Nguyên tiến tới phía
đông nam. Trân tới châu Môn. Thủ lĩnh châu ấy, là Hoàng Kim Mãn, theo
hàng (X/cth 9). Kim Mãn theo Trân tới sông Phú Lương, họp với đại quân.
208