Page 195 - Lý Thường Kiệt
P. 195

KHÁNG TỐNG-ĐÒI OẤĩ

    là Lý Kế Nguyên. Sách TB có chép tên ấy nhiều lần. Trên đây là một. Lần thứ hai là lúc
    dẫn lời Dương Tùng Tiên trình: "Vừa rồi tôi đã gặp quân liên lạc giặc mang lệnh của viên
    hành quân chiêu thảo sứ giặc là Lý Kế Nguyên. Sau đó, nhiều lần tôi đánh chúng, nhưng
    chúng không có ý khuất phục.  Vậy xin nghiêm sai dự bị ở biên giới để chế sự bất ngờ"
    (tháng 3 năm Đinh Tỵ 1077, TB 281/2a). Lần thứ ba là tháng 10 năm Đinh Tỵ (1077), Giao
    Chỉ sai bọn Lý Kế Nguyên  tới biên giới bàn việc biên giới (TB 285/4b).  Các  sử ta  (TT và
    VSL) đều  chép rằng năm Mậu Ngọ  (1078) Lý sai Đào Tông Nguyên đem voi  sang cống
    Tống, chắc rằng muốn nói phái bộ trên. Xem vậy, ta có thể nghĩ rằng Lý Kế Nguyên và
    Đào  Tông  Nguyên  là  một.  Nhưng lại có  sứ giả  tên  là  Đào  Tông  Nguyên  thật, vì  cũng
    trong sách TB có chép tên ấy nhiều lần (313/1 Ib và 339/2a). Vả Tống sử (TS 488) cũng có
    chép tên Đào Sùng Nguyên, năm 1069 làm phó sứ tới báo sự thắng quân Chiêm Thành.
    Xem vậy thì hình như Lý Kế Nguyên và Đào Tông Nguyên là hai người khác nhau.
       Lại xét  trong sử đời Lý, có một nhân vật tên L ý   N g u y ê n , mà con gái làm thứ phi đời
    Lý Thần Tông,  Lý Nguyên làm thượng thư rồi bị  hạ  ngục, chết năm  1132. Nhưng năm
    1132 cách năm  1077 những 55 năm. Chắc rằng lúc đánh Tống, Lý Nguyên còn trẻ lắm,
    không phải là một chiêu thảo sứ được. Lý Nguyên không phải là Lý Kế Nguyên.
       Nói tóm lại, Lý Kế Nguyên là một chiêu thảo sứ, nghĩa là một tướng quan trọng cầm
    quân đánh Tống, cai quản đạo  thủy quân châu Vĩnh An. Có thể rằng Lý Kế Nguyên là
    tên khác của Đào Tông Nguyên. Vì đời xưa, vua thường ban quốc tính, nghĩa là họ vua,
    cho bầy tôi được trọng đãi.
       Tên  N g u y ễ n   T h ù ,  ở  sử  ta  (TT  và  VSL)  cũng không thấy.  Nhưng TT  có chép:  "Năm
    1042,  mất  mùa,  vua  Lý Thái  Tông sai quan  khu  mật Nguyễn  Châu  đem  những  người
    phiêu  lưu  đắp ụ đất ở các địa  phương, trên có dựng thẻ gỗ đề  tên  đất, để người đi tha
    hương kiếm ăn dễ nhận đường".
       Chữ C hâu là n gọc  châu rất gần chữ T hù là khác, có lẽ hai tên ấy là một chăng? Từ năm
    1042 đến năm 1076 có 34 năm, giả thuyết trên cũng không vô lý. 5.
       * Sách  TT có  chép vào năm  1039 rằng:  "Tháng 5, huyện  L iên  châu  L ộ n g   Thạch, châu
    Đ ịn h   B iên  thuộc Quảng Nguyên có mỏ bạc. Châu  Đ ịn h   Biên  nay ở Bắc Cạn, tức là châu
    Định  giáp  vùng  Ngân  Sơn  (xem  VI/7).  Xem  vậy,  các  châu  trên  đều  ở  vùng  nam  Cao
    Bằng. Mà theo địa thế, hai châu H ạ  L iên , cổ L ộn g trong lời Yên Đạt cũng ở vùng ấy. Ta có
    thể đoán rằng Hạ Liên và huyện Liên có lẽ là một. Còn cổ Lộng có lẽ cũng là châu Lộng
    Thạch. Chữ c ổ là xưa với chữ thạch là đá dễ lẫn nhau, cổ Lộng có lẽ là Thạch Lộng, hay
    Lộng Thạch. 7.
       ’ về ngày Hoàng Kim Mãn hàng, sách TB đã nhận thấy rằng mỗi nơi nói một khác.
    Lời chú thích trong TB như sau:
       "Mộ ch í Q u ách   Q u ỳ chép:  Quách Quỳ dụ các khê động. Môn Châu có tụi Hoàng Kim
    Mãn, Sầm Khánh Tân hàng".
       "Sách N g ự  tậ p chép: Ngày 19 tháng 5, Tôn Giốc làm chuyển vận sứ ở Hồ Bắc tâu rằng
    Hoàng Kim Mãn muốn hàng".

                                      205
   190   191   192   193   194   195   196   197   198   199   200