Page 193 - Lý Thường Kiệt
P. 193

KHÁNG TỐNG - ĐÒI OẤT


        Tuy Cảnh Phúc không những không theo gương các thủ lĩnh các châu
    khác quy hàng giặc, mà còn đổi thế thủ ra thế công bằng du kích, nhưng thế
    cũng không ngăn nổi đại quân Tống đang ồ ạt băng ngàn, tràn xuống miền
    nam. Các phủ Lạng Châu và Phú Lương đang sắp qua những ngày quyết liệt.




    Chú thích:
       ’ Chữ T hái tử  thường dùng để chỉ con vua được chọn nối ngôi. Nhưng theo Chu Khứ
    Phi thì đời Lý, các con vua đều gọi là thái tử (LNĐĐ 2). Sách ta, như VSL, chỉ chép là hầu
    mà thôi. Chữ hầu chỉ con vua. Hai hầu này có lẽ là em vua Lý Thánh Tông (XV cth 3). Các
    sách Tống đều chép tên Hồng Chân. Sách ta, như VSL chép H o ằ n g  C h ân . Tuy rằng Lê Tắc
    cũng chép  Hồng Chân  trong sách  ANCL,  nhưng có lẽ Tắc viết sách  ở đất  Nguyên,  đã
    theo sách Tống. 1.
       ^ Trong các sách Tống, thường chép tên châu mục Quảng Nguyên là Lưu Kỷ (TB, TS,
    ĐĐSL). Nhưng cũng có một vài nơi lại chép Lưu ứng Kỷ, như trong truyện Quách Quỳ
    ở TS 290 và truyện Yên Đạt ờ  ĐĐSL 84.1.
       ^  Vân  Đồn  là  một  đảo  trong  nhóm  phía  nam  đảo  Ile  de  la  Table  ở  địa  đồ  Đông
    Dương. Đại Bàn là vùng đảo Kế Bào (nay ở Kế Bào có làng Đại Độc và phía đông có đảo
    Độc Bàn). Đường thủy từ Trung Quốc sang ta hay qua phía đông hay phía tây Kế Bào.
    Đồn Sơn ở phía đông Kế Bào (xem V/2). 1.
       * Phú Lương là tên một phủ đời Lý (theo LNĐĐ và VSL, TT). Nay cũng còn châu Phú
    Lương thuộc  tỉnh Thái Nguyên.  Thượng lưu  sông cầu  chảy qua  đó.  Đời  Lý,  phủ  Phú
    Lương gồm địa phận cả tinh Thái Nguyên bây giờ và cả huyện Đa Phúc nữa. Sông Phú
    Lương là  khúc sông cầu  chảy qua  đó.  Nối với  sông Phú Lương có sông Như Nguyệt,
    chảy từ ngã ba Như Nguyệt qua  làng Như Nguyệt đến vùng Thị cầu.  Tiếp đó là sông
    Kháo Túc (xem XV2)  chảy xuống Phả Lại, Vạn Kiếp.  Có lẽ đối với Tống, Phú  Lương là
    sông Cầu, mà đối với ta thì lại gọi là sông Như Nguyệt. Cách gọi tên sông ở xứ ta là đặt
    tên từng khúc và thường lấy tên xứ sông chảy qua. Vì thế mà tuy một dòng sông, nhưng
    có nhiều tên khác nhau. Sự ấy thường làm cho người ta lầm lẫn. Đến đời Lê, sông ấy có
    tên là Nguyệt Đức, hay Nguyệt Giang. Trong sử sách ta, sông ấy lại còn tên là Vũ Bình
    (VĐUL), và theo LNĐĐ của người Tống, còn thêm tên Nam Định (IV/cth 6 và V/1).
       về sông Phú  Lương còn có một sự lầm lớn nữa, là  các sử Trung Quốc và  sử ta đều
    lầm  với  sông Nhị  Hà.  Nguyên  nhân  sự lầm  ấy  là bởi sử gia  Trung Quốc.  Có  lẽ  người
    Tống khi đọc đến truyện Quách Quỳ đưa quân đến sông Phú Lương, “ch i còn  cách  G iao
    C h i có  m ộ t  con  sôn g" , thì tưởng Phú Lương Giang là Lô Giang (Nhị Hà). Theo chỗ tác giả
    nhận thấy,  thì ít nhất là về đời Nguyên đã lầm như vậy rồi. Trong N g u y ê n   sử ,  A n   N a m
     tru y ệ n ,  chép việc  Sài Thung  tới Thăng Long năm  1278:  có  nói  quan  Thái  úy  (vua  Trần


                                       203
   188   189   190   191   192   193   194   195   196   197   198