Page 194 - Lý Thường Kiệt
P. 194

LÝ THƯỜNG KIỆT


        Nhân Tông) dẫn bách quan từ bờ sông Phú Lương (đây viết chữ lương là rư ờ n g ) ra mời
        Sài  Thung vào quán.  Ngày mồng 2 tháng Chạp,  Nhật  Huyễn  (Thái  thượng  hoàng)  tới
        quán, ra mắt các sứ giả. Theo chuyện, có thể nhận Phú  Lương đây muốn nói sông Nhị
        Hà.  Cũng ở Nguyên  sử, lại  có chỗ  chép Phú  Lương với  chữ Lương là  lành:  "Năm  Chi
        Nguyên thứ 22 (1285), Ô Mã Nhi thua trận trên sông Phú Lương. Toa Đô chết".
           Từ đời Nguyên trở về sau, sử Tàu đều chép lầm như vậy, nghĩa là mỗi lúc muốn nói
        sông Nhị Hà thì chép là  Phú  Lương Giang.  Còn  sử ta, lúc đầu  đời Trần  còn chép là Lô
        Giang, khi muốn nói rằng Thái Tông lui về đóng ở sông Nhị Hà (TT 1257). Đến sau tuy
        có lúc chép Nhị Hà bằng Lô  G ia n g (TT 1257,1282,1285), nhưng mỗi lúc thấy sử Tàu chép
        Phú Lương Giang, sử gia ta không phán đoán, liền chú thích là sông Nhị Hà. Vậy mà chỉ
        cần nhìn địa đồ nhỏ cũng đủ đoán được rằng, đời Tống, Phú Lương Giang chi sông cầu
        bấy giờ. Ông Maspéro đã nhận thấy sự lầm ấy trong tập san ĐPBC. 1.
           ^  Đào  Bật  tự Thương ông,  người  Vĩnh  Châu,  dự vào  nhiều  việc  đánh  dẹp  các  khê
        động, sau được coi Thuận Châu. Bị bệnh ở đó rồi chết. Bật có thơ vịnh miền Ung Châu
        (XII/1). 3.
           ^ về nhật trình tiến quân của Quách Quỳ, sách TB chép hơi lúng túng, bởi vì các tài
        liệu sách ấy dùng đã chép không giống nhau. TB (278/14b) có chú thích rằng: “Q u á ch   Q u ỳ
        tru yệ n  nói tháng 10 Quỳ đến Ung, còn Mộ ch í  Q u ách   Q u ỳ thì không chép rõ ngày tháng
        nào  cả.  Theo  M ộ   ch í  T riệu   T iế t,  thì  quân  lưu  lại  Tư  Minh  7  tuần  (70  ngày),  và  ngày  11
        tháng  Chạp,  từ Tư Minh  đi.  Nếu  ta  tính  dồn  lên,  thì  thấy  rằng quân  tới Tư  Minh  vào
        khoảng cuối tháng 9, đầu thángio. Vả từ Ung tới Tư Minh còn mất chừng 4 ngày đường.
        Nếu như ta cho rằng thiên Q u ách   Q u ỳ   tân   và cự u   tru y ệ n   ở  TL chép Quỳ tới Ung vào tháng
        10 là đúng, thì Mộ chí Triệu Tiết lại thành ra chép sai. Muốn cho cả hai đường đều đúng
        thì ta phải nhận rằng đầu tháng 10, quân tới Ung rồi lập tức đi xuống Tư Minh. Nhưng
        sợ quân đi như thế là vô lý. Vả chăng, ngày 15 (TB lầm ra 16) tháng sau, Quỳ đi từ Đàm
        xuống Quế; đường đi mất 14 ngày. Vậy đến Quế vào đầu tháng 7. Quế lại cách Ung 14
        ngày. Nếu quả tháng 10 mới tới Ung, thì hóa ra Quỳ ở  lại Quế rất lâu (3 tháng).  Vả lại,
        ngày 23 tháng 9, có chiếu nói rằng ch ẳn g bao  lâu  qu ân   sẽ  ra  khỏi cõi. Nếu bấy giờ quân chưa
        tói Ung,  thì sao lại có lời nói quân sẽ ra  khỏi cõi? Hoặc giả  Q u ách   Q u ỳ   tru y ệ n  chép đầu
        tháng 10 Quỳ tới Ung là sai. Đáng lẽ thì giữa tháng 9 tới Ung, đầu tháng 10 đến Tư Minh
        mới phải".
           Lý luận  trên xác đáng, và hợp với chứng sau.  Ngày 14 tháng 10 (TB 278/6b), vua  có
        chiếu rằng: "An Nam hành doanh đã tới Ung Châu. Tính tới thượng tuần tháng 9, quân
        lính của bốn tướng chết, bệnh mất bốn, năm nghìn tên..." Ta có thể hiểu rằng cái ngày
        thượng tuần tháng 9 nói trên, là ngày quân đến Ung Châu. Tuy sau lời bàn trên, TB thêm
        rằng Mộ chí chép quân ở lại Tư Minh bảy tuần là sai, nhưng nay ta tính lại, thì thấy rằng
        Mộ chí chép như thế có lý. Vậy tôi đã theo thuyết ấy. 4.
           ’’ Lý Thượng Cát tất nhiên là Lý Thường Kiệt. Đọc bằng âm Tàu, hai tên như nhau.
           Lý Kế Nguyên là ai? Sử ta không hề chép tới. Lần đầu, Tống sử (TS 488) chép tên phó
        sứ Lý Kế Tiên tới Biện Kinh vào năm 1063. Chữ T iên là trư ó c gần chữ n g u y ê n là đ ầ u . Chắc


                                          204
   189   190   191   192   193   194   195   196   197   198   199