Page 120 - Lý Thường Kiệt
P. 120
LÝ THƯỜNG KIỆT
vịnh Hạ Long ngày nay, rồi len lỏi theo bờ biển sau núi đá, mà thình lình
vào vịnh Khâm Châu.
Ung Châu, nay là Nam Ninh, ở trên sông uất Giang, sau chỗ hai dòng
Tả Giang và Hữu Giang họp lại. Những đuờng từ đất ta tới đó có nhiều: từ
châu Quảng Nguyên vào, thì theo bờ sông Tả mà qua trại Thái Bình; từ
châu Tô Mậu vào, thì phải vuợt núi, qua các đất Lộc Châu, c ổ Vạn, Tu Lăng
và Thuợng Tu; đuờng chính từ châu Quang Lang vào, thì qua các đất Tây
Bình, Bằng Tường, Tu Minh và trại Vĩnh Bình. Các đuờng này đều khá gồ
ghề và phải qua những đồn trại Tống. Nếu quân ta lấy được Khâm Châu,
thì theo đường Khâm Châu thẳng lên Ung Châu là gần hơn cả (V/1).
Lý Thường Kiệt tập trung quân hạ du ở Vĩnh An và quân thượng du ở
dọc biên thùy tại các châu Quảng Nguyên, Môn, Quang Lang và Tô Mậu.
2. Binh tướng
Như trên đã nói, đời Lý dùng dân quân; khi hữu sự mới gọi dân ra lính
(IỰ2). Trong trận đánh Tống, chắc rằng cấm binh phần lớn ở nhà, vì vua còn
nhỏ tuổi, không xuất chinh. Quân tinh nhuệ là quân hạ du, tập ữung ở
miền đông, do Lý Thường Kiệt điều khiển. Còn miền bắc thì đã có thổ quân,
do thủ lĩnh các châu đốc suất. Các thổ dân đi đường bộ, đưa cả vợ con đi
theo. Sau trận, Vương An Thạnh có gọi kẻ lái buôn từ nước ta về, để dò hỏi;
người ấy trả lời rằng: "Khi Giao Chỉ vào cướp, quân có 6 vạn, trong đó nhiều
đàn bà, trẻ con. Man dân kéo hết cả nhà theo, chỉ để một vài người ốm yếu
ở nhà"^^' (TB 275/13b). Lời ấy chắc là nói các dân man động mà thôi. Còn
quan quân, đã có quy củ. Vả đi đường thủy, chắc không thể đem người nhà
đi theo nhiều được.
Hai đạo quân ấy có từ sáu vạn đến mười vạn*'*’.
Lý Thường Kiệt lĩnh thủy quân, từ Vĩnh An đánh vào ven bể Quảng
Đông (VSL). Đó là đại quân.
Còn các quân từ biên giới miền tây Quảng Tây kéo vào, có Tông Đản
quản lĩnh (TT). Tông Đản là ai? Sử ta không hề nói đến, ngoài việc cầm
quân đánh thành Ung lần này. Tống sử và Tống thư cũng không đâu nói
128