Page 12 - Liệu Pháp Đông Y Tự Nhiên Trị Bệnh
P. 12
BẢNG 48 KỲ HUYỆT QUỐC TẾ
Vị trí Tên gọi
Tứ thần thông, Đương dương, ấn đường, Ngư yêu, Thái dương, Nhĩ
Đầu, cổ tiêm, Cầu hậu, Thượng nghinh hương, Nội nghênh hương, Hải tuyển,
Kim tân, Ngọc dịch, ế minh, Bách lao.
Ngực, bụng Tử cung
Định suyễn, Bối giáp, Uyển hạ du, Bĩ căn, Hạ cực du, Yêu nghi, Yêu
Lưng
nhãn, Thập thất chùy, Yêu kỳ.
Trữu tiêm, Nhị bạch, Trung tuyển, Trung khôi, Đại cốt không, Tiểu cốt
Chân trên
không, Yêu thống, Ngoại lao cung, Bát tà, Tứ phùng, Thập tuyên.
Khoan cốt, Hạc đỉnh, Bách trùng oa, Nội tất nhãn, Tất nhãn, Đảm
Chân dưới nang, Lan vỹ, Nội hòa tiêm, Ngoại hòa tiêm, Bát phong, Độc âm,
Khí đoan.
Thị huyệt
Theo Hán Thư. Đông Phương Sóc Truyền, thầy Nhan thời xưa gọi chữ
“A” có nghĩa là “đau”, vì khi ấn vào chỗ đau, người bệnh kêu lên một tiếng
“A”, nên người xưa gọi là A thị. Tên gọi A thị được thấy trong Thiên kim
phương ở đời Đưòng. Có cách gọi A thị huyệt, là vì khi có bệnh, ấn và bấm
lên đó, nếu đúng là chỗ đau, người bệnh liền kêu lên “A”. Sau khi kiểm
nghiệm bằng châm cứu, gọi đó là A thị huyệt. Do nó không nằVn một nơi cố
định nên người xưa gọi là huyệt bất định.
Cũng có sách gọi huyệt này là Thiên ứng huyệt, tuy tên gọi khác nhau
nhưng ý nghĩa lại giống nhau. Ngược dòng thời gian, Nội kinh cũng đã viết
“Lấy chỗ đau làm huyệt”. Loại huyệt vỊ này không có tên gọi cụ thể, cũng
không có vị trí cố định mà chỉ lấy chỗ đau làm huyệt,-trực tiếp tiến hành châm
cứu, có huyệt có hiệu quả rõ rệt so với các vị trí cố định.
Gần đây còn có tên gọi “Điểm ấn đau”, “điểm ấn mẫn cảm”, nhưng
không nhất định là A thị huyệt. 'Đôi khi Kinh huyệt hoặc Kỳ huyệt cũng ấn
chỗ đau để lấy huyệt. Như Linh Khu. Bối Du viết: “Thận du nằm ở trong
khoảng khe của đốt xương thứ 14, cách huyệt Giáp tích 3 tấc, qua kiểm
nghiệm thực tế, ấn vào chỗ này có thê giảm đau, xác nhận ở đó là huyệt. Có
nghĩa là khi lấy Kinh huyệt cũng có thể ấn vào chỗ đau để lấy huyệt. Lại như
huyệt Lan vỹ, huyệt Đảm nang trong Kỳ huyệt, tại một vị trí nhất định ấn vào
13