Page 10 - Liệu Pháp Đông Y Tự Nhiên Trị Bệnh
P. 10
Bốn là khi kiểm tra một số vị trí, người bệnh không cảm thấy đau mà cảm
thấy đặc biệt thoải mái, châm vào các vị trí này, bệnh tình lại thuyên giảm. An
vào cảm thấy thoải mái và nếu ấn đúng vị trí, bệnh sẽ thuyên giảm.
Do nhận thức của con người về đặc điểm vị trí của huyệt vị và tác dụng
chữa bệnh ngày một sâu rộng, vì thế vị trí cũng như tên gọi của huyệt vị lần
lượt được xác định. Cùng với sự phát triển của xã hội, sự cải tiến của công cụ
cùng với các kinh nghiệm tích luỹ được, dần dần đã hình thành nên lý luận
huyệt vị có tên gọi cố định, vị trí chuẩn xác và có tác dụng chữa bệnh. Do
huyệt vị càng ngày cànR nhiều, nội dung không ngừng phong phú, vì thế nên
đã căn cứ vào kinh mạch để phân loại hệ thống huyệt vị.
Đặc biệt lưu ý:
Du huyệt là tên gọi chung của huyệt vị toàn thân. Du huyệt cũng là tên
của huyệt vị thứ ba trong Ngũ du huyệt là Tỉnh, Huỳnh, Du, Kinh, Hợp. Du
huyệt cũng chuyên chỉ Bối du huyệt như Ngũ tạng du và Lục phủ du nằm trên
kinh Túc thái dưcttig bàng quang.
2. Phân loại huyệt vị
Huyệt vị trên cơ thể con người rất nhiều, trên cơ thể có thể phân làm 3
loại huyệt là Kinh huyệt, Kỳ huyệt và A thị huyệt. Cụ thể như sau;
Kinh huyệt
Phàm những huyệt vị thuộc 12 kinh mạch và 2 mạch Nhâm, Đốc thì được
gọi là 14 Kinh huyệt, gọi tắt là Kinh huyệt. Các huyệt vị này do phân bố trên
14 kinh nên có mối quan hệ mật thiết với kinh mạch, không chỉ có tác dụng
chữa các chứng bệnh của Kinh huyệt mà còn có thể phản ánh các chứng bệnh
của 14 kinh và các chứng bệnh thuộc phủ tạng. Cùng với thực tiễn chữa bệnh
của con người, Kinh huyệt cũng trải qua quá trình từ ít đến nhiều. Bảng thống
kê các triều đại tiêu biểu đã sử dụng châm cứu được ghi lại như sau:
BẢNG PHÂN I OẠI TỔNG s ố 14 KINH HUYỆT CỦA CẮC TRlỂư ĐẠI Cũ
Niên đại
Tác giả Tên sách Sô' huyệt
(Cônq nguyên)
Đơn Nhị Tổng
huyêt huyệt cộng
Chiến quốc 475-221 Khoảng Khoảng Khoảng
- Nội kinh
trước Công nguyên 25 135 160
11