Page 11 - Liệu Pháp Đông Y Tự Nhiên Trị Bệnh
P. 11
Tam quốc Nguỵ Tấn
Hoàng Phủ Mật Giáp Ất 08 300 349
(256 - 260) -
Đường 682 Tôn Tư Mạo Thiên kim dực
Tống 1026 Vương Duy Nhất Đồng Nhân 51 303 354
Nguyên 1341 Hoạt Bá Nhân Phát Huy
Minh 1601 Dương Kế Châu Đại Thành 51 308 359
Thanh 1817 Lý Học Xuyên Phùng Nguyên 52 309 361
Đặc biệt lưu ý:
Trong 14 Kinh huyệt, một vài
huyệt vị có tính chất và tác dụng tương
đồng hoặc giống như nhau, người xưa
vì thế quy chúng vào các loại không
giống nhau và đặt tên gọi cho các huyệt
vị đó, hiện nay gọi là Huyệt chỉ định
đặc biệt. Đó là Ngũ du huyệt, Nguyên
huyệt, Lạc huyệt, Khích huyệt, Bát
mạch giao hội huyệt, Hạ hợp huyệt nằm phía dưới tứ chi, đầu gối; Mộ huyệt ở
ngực và bụng; Bối du huyệt ở lưng; Bát hội du và Giao hội du ở tứ chi.
Kỳ huyệt
Kỳ huyệt là huyệt vị không thuộc vào 14 kinh, vì nó có tác dụng kỳ diệu
nên người xưa gọi là “K auyệt”. Do nó nằm ngoài 14 kinh nên người xưa gọi
là Kỳ huyệt ngoài kinh. Linh khu. Thích tiết chân tù gọi là Kỳ du. Nó được
phát triển dựa trên cơ sở của A thị huyệt, trong đó huyệt nào có vị trí rõ ràng,
có tên gọi thì được gọi là Kỳ huyệt hữu danh; một số huyệt chỉ có vị trí rõ
ràng nhưng không có tên gọi thì được gọi là Kỳ huyệt vô danh. Các Kỳ huyệt
hữu danh chiếm đại đa số, các Kỳ huyệt vô danh chỉ chiếm thiểu số. Phạm vi
chữa bệnh của loại huyệt vỊ này khá đơn giản, đa số có tác dụng chữa bệnh
đặc biệt đối với một số chứng bệnh như huyệt Bách lao chữa bệnh kiết lỵ,
huyệt Tứ phùng chữa bệnh cam tích ở trẻ nhỏ.
Sự phân bố của Kỳ huyệt khá phân tán, có Kỳ huyệt nằm trên đường tuần
hoàn của 14 kinh, có Kỳ huyệt mặc dù không nằm trên đường tuần hoàn của 14
kinh nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với kinh lạc; có Kỳ huyệt không phải
chỉ là một huyệt mà là được tạo thành bởi rất nhiều huyệt vị như Thập tuyên,
Bát tà, Bát phong, Hoa Đà giáp tích; có một số huyệt gọi là Kỳ huyệt nhưng
thực chất lại là Kinh huyệt như Bào môn, Tử hộ, thực tế là huyệt Thủy đạo.
12