Page 17 - Liệu Pháp Đông Y Tự Nhiên Trị Bệnh
P. 17

Đặc biệt lưu ý:

              Đời  Thanh,  Y kinh  lý giải  đã  khái  quát  về  ý  nghĩa  của  việc  đặt  tên  các
          huyệt vị như sau:  “Sách viết:  Những chỗ nào thịt nhiều thì gọi là hồ, thịt ít thì
          gọi là khe, những nơi kinh khí đi qua thì gọi là khổng huyệt (những chỗ lõm),
          những nơi nước chảy qua rồi tụ lại gọi là hồ, khe.  Những khe, hồ ấy  lại đổ về
          biển.  Những  nơi  tụ  tập  đông  người  thì  gọi  là  thành  phố,  phủ;  cũng  gọi  là
          đường,  phố.  Những  nơi  trú  ngụ  thì  gọi  là  phòng,
          buồng;  những  nơi  ra vào thì  gọi  là cửa.  Những  nơi
          xương  lồi  lên  thì  gọi  là  gò,  lăng.  Những  chỗ  hõm
          thì  gọi  là khoảng  giữa hai  khóp  xương.  Những  nơi
          khí  truyền  dẫn  qua  thì  gọi  là  huyệt.  Những  nơi  ở
          phía  trên  thì  gọi  là trời,  những  nơi  ở phía  dưới  thì   f
          gọi  là  đất...  Khái  quát  qua  như  vậy  nhưng  có  ý
          nghĩa vô cùng sâu sắc.
                                               ...........
               5. Phương pháp xác định vị trí huyệt VỊ

              Các nhà y học thời cổ đại vô cùng coi trọng việc xác định vị trí của huyệt vị.
          Thánh Huệ Phươtĩg cho rằng: “Nếu lấy huyệt sai thì chữa bệnh cũng sai. Vì thế.
          Đậu  Hán Khanh đã chỉ ra trong Tiêu  u phú  rằng:  “Chọn  5  huyệt chỉ  dùng một
          huyệt là sai, chọn 3 kinh mà chỉ dùng  1  kinh là không đúng, điều này chỉ ra rằng
          khi chọn huyệt để chẩn đoán lâm sàng nên kết hợp giữa kinh mạch và huyệt vị,
          trái phải, trước sau, phải hết sức cẩn thận kỹ càng.
              Vị  trí  của  huyệt  vị  có  đặc  điểm  nhất  định.  Thiên  kim phương  viết:  “Cơ
          nhục  văn  lý,  tiết  giải  phùng  hội,  uyển hãm  chi  trung,  cập dĩ thủ  an  chi  bệnh
          giả khoái nhiên”, có nghĩa rằng huyệt vị  thưòfng nằm ở khe  lõm của  bắp thịt,
          khófp xương hoặc  ở vị  trí mà khi dùng tay  ấn vào,  người  bệnh cảm  thấy  mỏi,
          trương. Bắp thịt và khớp xương là mốc chính của cơ thể, có thể là cơ sở để xác
          định vị trí của một vài huyệt vị. Với những vị trí cách các mốc này khá xa, có
          thể dùng phương pháp chia đoạn, cũng có thể dùng ngón tay ước lượng để xác
          định  vị  trí.  Phương  pháp  xác  định  vị  trí  của  huyệt  vị  có  thể  phân  ra  thành:
          phương pháp xác định vị trí bằng các mốc giải phẫu cơ thể, phương pháp xác
          định  vị  trí  trong  khuôn  phép  cốt  độ,  phương  pháp  xác  định  vị  trí  bằng  các
          ngón tay và phương pháp lấy huyệt đơn giản.

              Phương pháp xác định vị trí bằng các mốc giải phẫu cơ thể
              Mốc  cơ thể có thể phân  làm  2  loại  là mốc cố định và mốc chuyển  động,
          cu thể như sau:



                                              18
   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22