Page 403 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 403
Tiếp theo Đacuyn là Menđen (Gregor Mendel 1822 - 1884)
đƣợc coi là cha đẻ của môn di truyền học. Ngành y học có nhiều
phát hiện quan trọng về văcxin của Paxtơ (Louis Pasteur - Pháp),
về vi trùng lao của Kốc (Robert Koch - Đức), về phƣơng pháp
vô trùng trong giải phẫu của Lixtơ (Joseph Lister - Anh)…
Nhà hóa học Menđêlêep (Dmitri Ivanovitch Mendeleiev -
Nga) đã thiết lập Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học. Nhà
vật lí Farađây (Michael Faraday - Anh) nêu lên nguyên lí về
cảm ứng điện từ.
Đến đầu thế kỉ XX, phát minh của Becơren (Antoine
Becquerel - Pháp) về tính phóng xạ của uranium và sau đó là
ông bà Quiri (Pierre Curie - Pháp, Marie Curie - Ba Lan) tìm ra
chất phóng xạ thiên nhiên, đặt cơ sở đầu tiên cho lí thuyết về hạt
nhân.
Thuyết tƣơng đối của Anhxtanh (Albert Einsetein – Đức)
đánh dấu một bƣớc chuyển quan trọng trong ngành vật lí học
hiện đại. Bản thân ông đƣợc coi nhƣ một trong những nhà khoa
học lớn nhất của thời đại.
Do những phát minh trên, những giải thưởng Nôben
đầu tiên về vật lí được tặng cho Rơnghen (1901), Becơren
và ông bà Quyri (1903). Sau đó, Anhxtanh được nhận giải
năm 1921.
Về mặt kĩ thuật, nét nổi bật là những phát minh về điện.
Phát minh của Moocxơ (Samuel Morse - Mỹ) về điện báo, của
Eđixơn (Thomas Edison - Mỹ) về bóng đèn điện và xây dựng
nhà máy điện; tiếp theo là những phát minh về điện thoại, điện
ảnh, vô tuyến điện truyền thanh (radio) và tia Rơnghen
(Roentgen - Đức) tia X đã đƣa nguồn năng lƣợng mới vào các
lĩnh vực của cuộc sống.