Page 102 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 102
khi phong kiến Việt Nam không còn ảnh hường trực tiếp đến Nam Bộ - thuộc địa, hình
thức “sơn son” thếp vàng mới được tìm thấy ỏ các đình chùa danh tiếng như các đình
Hiệp Ninh - Tây Ninh, Tân Lân - Biên Hòa..., hoặc các chùa Phước Tường - Thủ Đức,
Tập Phước - TP.HCM... Đây cũng là một biểu hiện xuất phát tù dặc đặc điểm vùng văn
hoá Nam Bộ. Cũng không hiếm các bức hoành dược làm theo lối “cuốn thư”, sơn son
thếp vàng rực rỡ, xuất hiện từ đầu thế kỷ XX..
Đối với đình, trừ một số rất ít như các đình Tân Lân-Biên Hòa, Phong Phú-Thù Đức,
Long Himg-Tiền Giang, Tân Himg-Bạc Liêu... là có tượng thờ, đa số chỉ có “thần vị”
(Xem hình 3.36) không có tượng Thần (trừu tượng). Ngoài thần vị, thường gặp trong
đình là các loại tượng như: “ngựa thẩn”, “qui-hạc”, “thần hổ”... (cụ thể), tất cả thường
được tạc đẽo rất công phu và dược phủ bên ngoài bằng lớp “son ta” nhiều màu, ít thấy
đơn sắc.
Đối vói chùa, nhất là chùa cổ, thì trái lại, rất nhiều tượng thò Phật, Bồ-tát, La-hán...
như chùa miển Bắc; nhưng đặc biệt tại Nam Bộ còn có các pho tượng tả “chân” chân
dung các vị sư trụ trì có công lớn trong việc xây dựng chùa như: Tượng tổ Hải Tịnh
(chùa Giác Viên) (Xem hình 3.37), tổ Huệ Minh, Huộ Thành (chùa Phụng Sơn)... (Hiện
thực cụ thể). Qua đây cho thây tư duy phân tích, một hệ quả của đặc điểm vùng văn hoá
Nam Bỏ đã bắt đầu được khẳng dịnh qua các tác phẩm nghệ thuật tả chân này.
Các pho tượng thờ cổ cho đến nay còn lại không nhiẻu nhưng đây là công trình của
nhiều hiệp thợ khắp nơi, đa phần là dân du cu Bắc, Trung đến miền Nam lập nghiệp, họ
đem tinh hoa khắp cả ba miền để sáng tạo ra các tác phẩm điêu khắc độc đáo, dù mang
hình thức tín ngưỡng, tôn giáo, nhưng đậm đà sắc thái vàn hóa dân gian Nam Bộ. Tượng
thờ thường không phải trong tư thế tham thiền mà là “đang ở tình trạng hoang hoú,
thuyết pháp độ sanh. Bộ tượng đã thể hiện được tính thực tiễn cao, đó là tinh thần của
một đạo Phật nhập thế, đi vào cuộc đởi" [67] (Xem hình 3.39). Yếu tố nhân chủng Việt
đã đi vào hình thể da số các tượng thờ “trang phục đã mất đi những đườrig nét trên áo
như cổ cao, nút thát và được thay vùo đấy là nliữiig chiếc áo tràng đơn sơ, giản dị... các
pho tượtìg này có đôi mắt nhỏ, chân mày xếch, đôi mắt mỏng của người dân Việt” [67]
(Xem hình 3.40). Hình ảnh thể hiện bình dị và gẩn gũi với nhân dân của các tượng thòr là
một đặc điểm văn hoấ xuất phát từ đặc điểm của vùng văn hoá Nam Bộ qua tín ngưỡng
tôn giáo, đã trình bày trong chương 2.
Có rất nhiều loại nghi cụ được tìm thấy trong các đình, chùa như: Bát bửu, sạp thờ,
hòm sắc, đỉnh hương (lư trầm) (Xem hình 3.38), đài nến (chân đèn), lư nhang, chân quả,
độc bình, giá trống, giá chuông, hồng chung, chuông, trống, khánh, mõ..., kể cả long
đình (kiệu rước sắc thần), lộng, tràn phang. Tùy theo khả năng cũng như “uy thế" của
từng loại đình, chùa mà chất liệu và mức độ thẩm mỹ các nghi cụ có khác nhau, nhưng
dây là bộ phận khỏng thể thiếu đối với đình, chùa và các chốn tôn nghiêm.
103