Page 101 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 101
Đình và chùa là các công trình vãn hóa, nên lượng câu đối khá nhiều, nhất là các
đình, chùa cổ. Hẩu hết các câu đối đều bằng chữ Hán hay chữ Nôm (câu đối là sản phẩm
của nén cổ học, khi ấy chưa có chữ quốc ngữ) trên nền đen (nển đen là sắc màu bắt buộc
trong dân gian của thời đại phong kiến cuối cùng) đưực khắc trực tiếp lên cột gỗ hay nửa
thàn gỗ “đẽo bọng”, chữ được viết theo thế trực (đứng). Đôi khi khắc chìm hay đắp nổi
trên các cột gạch, nhưng hầu hết đểu được “chạm” rất điêu luyện, đôi khi còn thể hiện
lối “chơi chữ” tài tình như cặp đối chùa Giác Lâm (Xem hình 3.35):
1 0 1 0 m m m n m S 0 10 n
Phiên ảm:
Triêu triêu triều, triêu triêu bái, triêu triêu triều bái.
Tể tề trai, tề tề giới, tề tề trai giới.
Dịch:
Sớm sớm cháu, sớm sớm lạy, sớm sớm chầu lạy.
Đéu đều chay, dều đểu giới, đểu đều chay giới.
Sử dụng một chữ với hai nghĩa (triêu ậ] — triều ệỊị) hoặc hai chữ gần giống nhau (Tề
ịệ — trai jSf) trong một vế đối để toàn bộ câu đối có một chuỗi chữ gần giống nhau như
hai xâu tràng hạt, một trình đô thật xuất sắc.
Đặc biệt nghĩa của các câu đối thường mang tính bình dân, giản dị như:
' # * 1 M % 31 m m M # ÍS
Phiên âm:
Tự cổ tăng nhàn thường dẫn yên hà vi bạn lữ,
Sơn thâm thế cách chỉ bằng thảo mộc ký xuân thu.
Dịch:
(Chùa cổ sư nhàn, sỉn khói ráng kết duyên bầu bạn,
Non sẳu đời khuất, nhờ cỏ hoa ghi dấu tháng năm)
Giản Chi [67],
Tính chất ngữ nghĩa bình dân, gắn kết với tự nhiên như trên cũng thể hiện đặc thù vãn
hoá và tính cách của người nghệ sĩ, người dân vùng vãn hoá Nam Bộ.
Đi đôi với câu đối là các bức hoành phi. Các đình chùa cổ Nam Bộ có rất nhiẻu hoành
phi treo ở chánh điện và các nơi trang trọng. Phần lớn các hoành phi đểu viết bằng chữ
Hán hoặc Nôm theo thế hoành (ngang) được “sơn đen” thếp vàng. Chỉ từ đầu thế kỷ XX,
102