Page 124 - Đinh Tiên Hoàng
P. 124

còn mình thì bị đòn  và bị đánh hỏng, Thích thấy chuyện
     Long bảng đề danh nơi trường ốc đối với y cũng không lấy
     gì làm khó, chỉ có điều Thích tự dặn mình, câu được làm
     vua, thua làm giặc luôn luôn phải nhớ nằm lòng.
         Năm Mậu  Dần, niên  hiệu  Thái Bình  thứ 9 (978), nhà
     Đinh lại mở khoa thi và Thích một lần nữa lều chõng vào
    kinh đô Hoa Lư ứng thí. Phép thi lần này so với lần trước
    có  sự  thay  đổi.  Thay  vì  bài  Kinh  nghĩa,  thích  nghĩa  các
    Kinh và bài văn sách hỏi về việc đế vương trị thiên hạ, là
    các  thể:  Thi,  phú,  cáo,  chế, chiếu, biểu, mỗi  thứ một bài.
    Như vậy về số lượng (sáu đề so với hai đề) thì lần này nặng
    hơn, nhưng đòi hỏi về mặt kiến văn (nói chung), sáu đề lần
    này lại có phần nhẹ hơn hai đề lần trước. Cụ thể là: Đại cồ
    thi vịnh (theo thể Đường luật) một bài, Tụng Hoa Lư phú
    một bài, Cáo bình mười hai sứ quân một bài, Chế về việc
    ban bố Hình luật một bài, Chiếu lên ngôi với đề ra là ba
    chữ Vạn Thắng vương một bài, và cuối cùng là Biểu chúc
    mừng (việc lên ngôi) một bài. Riêng phép chấm là có phần
    chặt chẽ hơn. Tất cả các quyển của thí sinh đều phải qua ba
    kỳ sơ khảo, hai kỳ phúc khảo và được phân làm bốn hạng:
    ưu, bình,  thứ, liệt.  Từ sáu  ưu trở xuống  đến bốn ưu  hai
    bình mới đựơc kể là ưu; từ ba ưu ba bình đến sáu bình chỉ
    được kể là bình và mới được lấy đỗ, còn trong sáu quyển,
    chỉ cần dính một quyển thứ hoặc một quyển liệt (mặc dù
    năm quyển kia đều ưu) là bị đánh xuống hạng thứ, hạng
    liệt và bị đánh hỏng!  Lại phân ra đầu hạng hỏng và cuối
    hạng hỏng: Nếu là năm ưu một thứ (thứ thượng) hoặc bốn
    ưu,  một  bình,  một  thứ (thứ  trung)  thì  còn  được cấp  cho
    một khoản học bổng và được lưu lại kinh học tập để năm
    sau  thi  tiếp;  nếu  lại  là  cuối  hạng  liệt  (quá  kém),  chẳng


                                                           125
   119   120   121   122   123   124   125   126   127   128   129