Page 213 - Di Tích Lịch Sử
P. 213

Chùa Côn Sơn tọa lạc trên xã Cộng Hoà, nằm giữa hai dãy núi Phượng Hoàng -
         Kì Lân cách Hà Nội khoảng 75km, là một trong ba trung tâm của thiển phái Trúc Lâm
         thời Trần.  Đền  Kiếp  Bạc thuộc địa phận hai thôn  Dược  Sơn và Vạn  Kiếp, xã Hưng
         Đạo, là nơi thờ phụng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Danh từ Kiếp Bạc là ghép
         từ tên của hai vùng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Vị trí của đển rất đặc
         biệt là nằm dựa lưng vào núi Trán Rổng, quay mặt ra Lục Đáu Giang -  nơi hội tụ của
         sáu con sông; sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy và
         nhánh chính của con sông Thái Bình. Quần thể khu di tích Côn Sơn -  Kiếp Bạc được
         xếp hạng Quốc gia năm 1962 và xếp hạng đặc biệt quan trọng vào năm 1994.
             Chùa Côn Sơn tên chữ là “Thiên Tư Phúc Tự”, nghĩa là chùa được trời ban cho
         phước lành. Trong dân gian còn gọi là chùa Hun vì tương truyền núi Côn Sơn là nơi
         hun gỗ làm than và đã từng diễn ra trận hoả công hun giặc, dẹp loạn  12 sứ quân của
         Đinh Bộ Lĩnh ở thế kỉ X.
             Nơi đầy, văn hoá Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo cùng tồn tại và phát triển qua nhiều
         thế kỉ, nhưng tất cả đều thấm đẫm bản sắc văn hoá Việt, đều để lại dấu ấn qua mỗi công
         trình xây dựng, qua từng chi tiết kiến trúc, chạm khắc, qua các bia đá, tượng thờ, hoành
         phi, câu đối; qua văn hoá Lý -  Trấn, Lê -  Nguyễn và ở các tầng văn hoá dưới lòng đất khi
         khai quật khảo cổ học. Thiền sư Huyền Quang -  vị tổ thứ ba của Thiển phái Trúc Lâm -
         một thiền phái mang màu sác dân tộc Việt Nam đã về tu ở chùa Côn Sơn. Tại Côn Sơn,
         Huyền Quang cho lập đài Cửu phẩm liên hoa, biên tập kinh sách, làm giảng chủ thuyết
         pháp, phát triển đạo phái không ngừng. Ngày 22 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), Thiển
         sư Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông đã cấp cho chùa ruộng để thờ
         và cho xây tháp tổ sau chùa, đặc phong Tự Tháp “Huyến Quang tôn giả”.
             Chùa xưa là một công trình kiến trúc vĩ đại gồm 385 pho tượng, từng là quần thể
         nguy nga với 83  gian lát gạch đỏ, ngói để men màu.  Đến nay, chùa vẫn giữ lại được
         những ngọn đá chạm cánh sen và một số ngói mũi hài đời Trần. Trước sân chùa có
         một cầy cổ thụ 600 tuổi làm tăng thêm vẻ trang nghiêm và uy nghi của chùa.  Chùa
         kiến trúc theo kiểu chữ cồng, gổm Tiến đường, Thiêu hương, Thượng điện là nơi thờ
         Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3m. Tiếp đến nhà tổ là nơi thờ
         các vị tồ có công tu nghiệp đối với chùa: Điều ngư Trúc Lầm Trần Nhân Tông, Thiền
         sư Pháp Loa và Thiển sư Huyền Quang.
             Đường vào Tam quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm tuổi phong trần xen
         lẫn những tán vải thiểu xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm  1995, có 2
         tầng 8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời
         Lê. Sân chùa có 4 nhà bia. Phía sau chùa là khu mộ tháp Đăng Minh Bảo Tháp, được
         xây dựng toàn bằng đá xanh cao 3 tầng, bên trong đặt xá lợi và tượng của sư Huyền
         Quang.  Dưới chân  Đăng Minh bảo  tháp  là giếng Ngọc  mà người xưa tương truyền
         giếng này là con mắt của con Kì Lân.
             Từ chùa Côn Sơn leo khoảng 600 bậc thang đá là tới đỉnh Côn Sơn cao 200m, trên
         đỉnh có một phiến đá khá rộng gọi là Bàn Cờ Tiên. Nơi đầy có một cái am nhỏ gọi là
         am Bạch Vân hình chữ Công với tám mái chảy, có lan can xung quanh. Đến chùa, du

                                 Một số b i  tícVt lịcVt sử -  VĂM Vioíi Viét N A m
                                           ( 2 1 6 )
   208   209   210   211   212   213   214   215   216   217   218