Page 299 - Dạy Học Vật Lý
P. 299
TômatXavơri (1650-1715)
rồi chuyển sang giai đoạn 2. Cứ như thế tiếp diễn, kết quả là nước ở mỏ được hút
lên mặt đất và đưa ra ngoài.
Cũng cần nói thêm rằng trong ba năm đầu ra mắt thị trưÒTig, vận hành của
máy gặp khá nhiều trục trặc. Có máy do áp suất của hơi lớn quá nên khi vận hành
một số mối hàn của máy bị bong ra, do đó luôn luôn phải hàn lại các mối hàn đó.
Lại có máy luồng hơi phun ra mạnh và nóng quá đến nỗi “xé rách” máy ra thành
nhiều mảnh. Có máy đang làm việc thì bỗng nhiên nước trong máy phun lên xối
xả làm hỏng máy.
Đặc biệt có một số máy do hàn không thật kín nên nước chỉ lên cao được
chừng 7m, không thể hút nước từ giếng mỏ lên được. Những máy đó chỉ có thể
dùng để hút nước ở hồ ao hay rãnh nuớc tại những khu vực gần mỏ, hay hút nước
ở sông lên cung cấp cho thị trấn hay cho nhà dân trong thành phố.
Tình trạng như trên kéo dài đến khoảng năm 1705 thì về căn bản là được
khắc phục. Khoảng từ 1706 trở đi, khi đại đa số máy đã vân hành ổn định thì lại
gặp những khó khăn khác. Chẳng hạn như có chủ đất phàn nàn rằng máy chạy ở
mỏ than bên cạnh gây ra tiếng ồn làm họ khó chịu.
Sáng chế đầu tiên của Xavơri vào tháng 7 năm 1698 được bảo hộ 14 năm.
Năm sau, năm 1699, một đạo luật của Nghị viện tăng thời hạn bảo hộ lên 21 năm.
Nhưng đạo luật này không nói cụ thể là áp dụng cho sáng chế đầu tiên của Xavơri
mà chỉ nói chung chung là Đạo luật về Động cơ Lửa. Theo tinh thần đó, người ta
hiểu sáng chế của Xavơri theo một nghĩa rất rộng, nó bao trùm toàn bộ những
động cơ nào dùng lửa để đưa nước lên cao. Do đó những động cơ được thiết kế
trong thời gian này trở thành được hưởng quyền ưu đãi đặc biệt: bất kì động cơ
nào dùng lửa để đưa nước lên cao đều nằm trong phạm vi bảo hộ của đạo luật.
299