Page 67 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 67
như tốc độ dòng khí đỉnh điểm buổi sáng và tối, các triệu chứng
hen và nhu cầu xịt câp cứu tốt hơn đáng kế ở nhóm sử dụng
terbutaline đều đặn, FEV1 cũng tăng lên đáng kể trong thời
gian điều trị terbutaline. Khác biệt cơ bản của nghiên cứu này
với nghiên cứu ỏ New Zealand là ỏ chỗ tất cả đối tượng nghiên
cứu đều được sử dụng theophylline giải phóng chậm với nồng độ
trung bình trong máu khoảng 1 5 - 17ịig/ ml. Do vậy các đối
tượng này được bảo vệ trong thòi gian ban đêm khi mà hiệu quả
của terbutaline xịt không còn.
Cần có thêm nhiều nghiên cứu hơn đốỉ với các thuốc giãn
phế quản p có tác dụng dài hơn như formoterol và salmeterol để
giải quyết các vấn đề đã nảy sinh về vai trò của các thuốc giãn
phế quản p - adrenergic trong việc điểu trị hen phế quản.
III. CÁC CHẤT ĐỐI KHÁNG (ANTAGONIST) a- ADRENERGIC
Có ít bằng chứng thuyết phục cho thấy rằng sự kích thích a-
adrenergic của cơ trơn phế quản hoặc của tuyến nhầy có đóng
góp đáng kể vào sinh bệnh học của hen và vấn đề này vẫn còn là
đề tài tranh cãi. Tuy nhiên cần phải nói lại rằng trở kháng
đường hô hấp tỷ lệ nghịch với lũy thừa 4 của bán kính đưòng hô
hấp. Như vậy thậm chí một kích thích a- adrenergic nhỏ cũng
làm ảnh hưởng nhiều đến dòng khí. Bên cạnh tác động lên cơ
trơn phế quản và các tuyến nhầy, các thuỗc a- adrenergic có thể
làm tăng sự giải phóng chất trung gian từ dưõng bào. Các thuốc
phong bế a-adrenergic là một nhóm thuốc có thể có ích cho
những người bị hen nhưng việc sử dụng chúng trong điều trị
bệnh hen vẫn đang còn được nghiên cứu. Dù vậy, vẫn liên tục có
sự quan tâm về tính hữu dụng của các chất đôì kháng a-
adrenergic trong điều trị bệnh hen. Như chúng tôi đã từng nói,
hen là một bệnh không đồng nhất về mặt miễn dịch và sinh lý
và điều này cũng có thể là sự phản ánh tính không đồng nhất về
mặt hóa sinh. Vì vậy không có gì ngạc nhiên khi ta thấy có sự
phản ứng không đồng nhất của các bệnh nhân đối với tác dụng
của các loại thuốc khác nhau.
69