Page 332 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 332
Việc điều trị nhiễm độc cần bao gồm các biện pháp làm hạn
chế hấp thụ thuốíc nếu sử dụng qua đưòng miệng. Chông chỉ
định dùng phenothiazine vì các tác dụng kháng muscarinic của
chúng càng làm tăng sự nhiễm độc. Physostigmine là biện pháp
dược lý thích hợp; bải vì nó là chất ức chế cholinesterase, là một
chất giải độc đặc hiệu, làm thoái lui một cách nhanh chóng sự
rỗi loạn tâm thần cấp và sốt nếu như các triệu chứng này tồn
tại. ở người lớn cần truyền tĩnh mạch chậm từ 1 - 4 mg mỗi một
giò nếu cần, ỏ trẻ em là 0,5 - 1 mg. Do physostigmine bị phân
huỷ một cách nhanh chóng, nên có dùng các liều nhắc lại nếu
cần. Do physostigmine không mang điện tích nên nó có thể
thâm nhập được vào não; các cha't ức chế anticholinesterse khác
bao gồm cả neostigmine mang điện tích dương nên không có ích
bỏi trong việc làm giảm các tác động nhiễm độc CNS . Hô hấp
hỗ trợ có bổ sung oxy có thể cần đến trong những trường hợp
nặng. Trong trưòng hợp sốt cao có thể dùng túi đá, mảnh xốp
thấm cồn hoặc chăn làm mát.
Các tác dụng phụ của biện pháp điều trị bằng các thuôc
kháng muscarinic có thể dự báo được từ các tác động đã biết của
atropine lên các cơ quan khác nhau và là hàm sô" của nồng độ
thuôc trong máu. Tăng nhãn áp và tắc đường dẫn tiểu là các ví
dụ vể chông chỉ định tương đối với sự sử dụng các thuốc kháng
muscarinic. Các tác động gây độc lên CNS ữìỏ dự báo hơn và
xảy ra một cách khác nhau hơn. Các dấu hiệu của nhiễm độc
CNS bao gồm sốt, lo lắng hồi hộp hoặc kích động, ảo giác và mê
sảng. Sự ức chế CNS và truỵ mạch chỉ xảy ra với các trưòng hợp
nhiễm độc nặng. Chết có thể xảy ra do suy hô hấp sau khi liệt
và hôn mê.
Ngày nay chỉ có một thuốc kháng cholinergic được chấp nhận
cho sử dụng tại Mỹ để điều trị các bệnh đường hô hấp là
ipratropium bromide (Atrvent). Atropine sulfate, atropine
methonitrate và ipratropium bromide đã được sử dụng mạnh mẽ
trong các thử nghiệm lâm sàng ỏ những bệnh nhân có các bệnh
334