Page 205 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 205
k. Chỏng mặt và rối loạn vận động
Các chất đối kháng Hị thế hệ đầu đã được sử dụng để ngăn
ngừa và điều trị chóng mặt và các bệnh tiền đình khác bao gồm
dimenhydrinate, diphenhydramine, cyclizine, meclizine và
promethazine. Ngày nay người ta đang nghiên cứu vai trò của
các chất đối kháng HL thế hệ hai trong các bệnh này. Astemizole
tạo ra ức chế tiền đình đáng kể, như đã được đo bằng điện động
mắt ỏ động vật, và có hiệu quả trong điều trị chóng mặt mạn
tính. Terfenadine có tác dựng bảo vệ chông lại rối loạn vận động
(motion sickness) khi sử dụng một liều duy nhất 300 mg so với
placebo. Astemizole và terfenadine cả hai đều không có tác động
kháng cholinergic và không thể đi qua hàng rào máu - não ở bất
kỳ mức độ nào; như vậy, các thuốc này có thể tác động tại các cơ
quan tiền đình ngoại biên hoặc tại các cấu trúc thần kinh trung
ương nằm ngoài hàng rào máu-não như vùng postrema, median
eminence, các phần của hypothalamus (dưới đồi) hoặc các cơ
quan quanh não that khác.
4. Các tác dụng có hại
a. Các chất đối kháng Hị thế hệ đầu: có tới 25% những
người sử dụng các chất đốì kháng thế hệ đầu bị ảnh hưỏng buồn
ngủ và các tác động CNS khác. Có thể có tỷ lệ cao hơn những
người sử dụng bị ảnh hưảng có hại như suy giảm trí nhớ, nhận
thức, giảm sự tỉnh táo (alertness) và phản ứng chậm chạp; sự
suy giảm hành vi tâm thần-vận động sau khi uống các thuốc
này được coi là một vấn đề an toàn khi đi trên đường cao tốc.
Các tác động phụ có hại tương quan với nồng độ đỉnh điểm của
thuốc đốỉ kháng Hi trong huyết thanh và trong mô. Do vậy
những bệnh nhân có sự đào tải chậm thuốc này, những người
già hoặc những ngưòi có suy chức năng gan là những người đặc
biệt dễ bị các tác động phụ.
Các chất đối kháng Hj thế hệ đầu nói chung gây ra các tác
động ức chế có hại lên CNS như mệt mỏi, mơ màng buồn ngủ, rã
207