Page 197 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 197
kích thích cũng như chất đối kháng Hj được sử dụng trước khi
có kích thích. Các chất đối kháng Hị không bảo vệ được chông
/ lại sự co thắt phế quản gây ra bởi methacholine, LT D4.
Các châ't đôi kháng ĩỉị khác nhau về khả năng chuyển dời vị
trí của đường đồ thi liều lượng - phản ứng đối với histamine khí
dung sang bên phải ỏ những bệnh nhân hen. Chlorpheniramine
10mg tĩnh mạch, chuyển dời đường đồ thị liều lượng - phản ứng
theo thừa số 4, terfenadine ở liều lượng 60mg, 120mg và 180mg
chuyển đồ thị theo thừa sô" lần lượt là 12, 22 và 35; astemizole
10mg chuyển đồ thị theo một thừa sô" 17 và cetirizine 10mg
chuyển đường đồ thị theo một thừa sô" 70.
Các chất đối kháng Hi thế hệ hai bảo vệ chống lại phản ứng
sám đôi vổi kháng nguyên ỏ các mức độ khác nhau. Terfenadine
và astemizole ức chế sự co thắt phế quản tức thì trong vòng 45
phút đầu, và mức độ ức chế là 50% (hình 12). Sự bảo vệ chông
lại phản ứng chậm có thể không phải là tác động phong bế thụ
thể Hj mà có liên quan nhiều hơn với các tác động kháng dị ứng
và kháng viêm của các chất đốỉ kháng Hj thế hệ hai. Azelastine,
ví dụ, làm giảm phản ứng chậm với kháng nguyên dị ứng tới
hơn 70% bằng cách ức chế sự giải phóng thêm các chất trung
gian viêm.
Các chất đối kháng Hị thế hệ 2 làm giảm các triệu chứng
hen nhẹ khi được điều trị trong vài tuần hoặc vài tháng. Ở
những bệnh nhân hen mẫn cảm với phấn hoa, terfenadine
180mg/3 lần/ngày có ưu điểm hơn (tốt hơn) so với placebo trong
một nghiên cứu double blind chéo kéo dài 8 tuần, như được
đánh giá bằng sự giảm đáng kể số điểm triệv* chứng ho và khò
khè, và có tăng nhẹ tốc độ dòng khí thỏ ra tối đa.
199