Page 192 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 192
3 . C á c t ê b à o m ụ c t i ê u : sử dụng lâm sàng trong các bệnh dị ứng
a. Đường hô hấp trên: viêm mủi kết mạc dị ứng.
Mặc dù không có một chất trung gian viêm nào có khả năng
gây ra tất cả các dấu hiệu và triệu chứng của viêm mũi dị ứng,
nhưng người ta đã có bằng chứng chứng tỏ rằng histamine là
một chết trung gian có vai trò lớn trong bệnh này. Kích thích
histamine vào trong mũi gây ra tất cả các triệu chứng của viêm
mũi dị ứng: hắt hơi và ngứa mũi do kích thích các dây thần kinh
cảm giác; chảy nước mũi hoặc tăng chất dịch trên bề mặt của
niêm mạc mũi do tăng tính thẩm thấu của mạch và kích thích
phản xạ cholinergic các tuyến dưới niêm mạc; và tắc mũi do
giảm trương lực trong các mạch máu dẫn đến giãn mạch máu và
thoát các protein huyết tương ra ngoài.
Ở những bệnh nhân có viêm mũi dị ứng, được kích thích tại
chỗ trong mũi bằng các kháng nguyên dị ứng, các chất đối
kháng Hj như azatadine hoặc levocabastine sử dụng tại chỗ,
hoặc terfenadine, loratadine, cetirizine, ketotifen, diphenhydramine
sử dụng qua đường miệng trước khi gây kích thích kháng
nguyên dị ứng có thể ngăn cản một cách hiệu quả các triệu
chứng ngứa mũi, hắt hơi và chảy nước mũi trong phản ứng tức
thì đốỉ với kháng nguyên dị ứng. Hầu hết các chất đỗi kháng
thụ thể Hj được đem thử nghiệm trong các mẫu nghiên cứu gây
kích thích ở mũi đều có tác động ức chế sự tăng tính thẩm thấu
của mạch. Một sô', chứ không phải tất cả các chất đồi kháng H1?
ngăn ngừa sự giải phóng histamine sau khi có kích thích bằng
kháng nguyên; terfenadine 60mg/2 lần/ngày hoặc 300 mg 2
lần/ngày trong vòng 1 tuần trước khi gây kích thích có tác động
ngăn chặn sự tăng histamine trong nước rửa mũi sau khi có
kích thích, điều trị trước bằng loratadine cũng cho kết quả như
vậy, nhưng điều trị trước bằng cetirizine, ketotifen hoặc
diphenhydramine không cho kết quả như vậy.
Trong quá trình phản ứng sớm đổỉ với kháng nguyên, sự
tăng nồng độ histamine trong nước rửa mũi dưòng như liên
quan với sự kích hoạt dưỡng bào. Một mình histamine không
194