Page 193 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 193
thể gây ra phản ứng viêm kéo dài trong niêm mạc mũi. Phản
ứng thì chậm, biểu hiện như xung huyết mũi và tăng sự kích
thích mũi được coi là do tác động của eicosanoid và các tác nhân
lôi kéo bạch cầu trung tính và bạch cầu ưa acid hơn là do tác
động của histamine; tuy nhiên, các chất đối kháng Hị như
terfenadine và cetirizine đã được phát hiện là có tác động ức chê
sự tăng tính phản ứng khổng đặc hiệu của mũi gây ra bỏi
methacholine 24 giò sau khi kích thích, cần có thêm các nghiên
cứu với các chất kháng histamine này và các chất kháng
histamine khác để làm sáng tỏ vai trò của các chất đốỉ kháng Hi
trong việc làm biến đổi phản ứng in vivo do kháng nguyên dị
ứng trong các mẫu gây kích thích mũi.
Trong nhiều nghiên cứu, trong đó bệnh nhân ghi các điểm
triệu chứng hàng tuần và hoặc hàng tháng, ngưòi ta thây rằng
các chất đối kháng ĩĩị đặc biệt có ích trong việc cải thiện các
triệu chứng như ngứa mũi, hắt hơi, chảy nước mũi cũng như
làm giảm các triệu chứng ở mắt như ngứa mắt, chảy nước mắt
và giãn các mao mạch ỏ kết mạc. Các chất đốỉ kháng Hi thế hệ
đầu và cả thế hệ hai đều ít hiệu quả trong việc làm giảm triệu
chứng tắc mũi, và các chất chống xung huyết như pseudoephedrine
đã được sản xuất kết hợp cùng với các chất đối kháng Hj để tăng
cưòng tác dụng chổng ngạt mũi.
Trong các nghiên cứu ỏ những bệnh nhân có viêm mũi theo
mùa hoặc viêm mũi kéo dài quanh năm, người ta thấy rằng các
thuốc đối kháng Hi thế hệ 2 có hiệu quả hơn so vói placebo và có
hiệu quả tương tự như các chất đốỉ kháng Kỵ thế hệ đầu như
chlorpheniramine (hình 11). Terfenadine 60mg/2 lần/ngày hoặc
120 mg/lần/ngày; astemizole lOmg/ngày; loratadine 10 mg/
ngày; cetirizine 10 mg/ ngày; và azelastine 2mg/2 lần/ngày là
liều lương mà các nhà sản xuất khuyên dùng để có được hiệu
quả chữa bệnh cao đồng thòi giảm thiểu tác dụng gây ngủ và
các tác dụng phụ khác. Ngưòi ta nói rằng các thuỗc này có hiệu
quả giống với nhau trong việc điều trị viêm mũi dị ứng theo
mùa, nhưng lại không đưa ra sự so sánh trực tiếp hiệu quả của
chúng. Người ta đã thực hiện một sô" nghiên cứu so sánh terfenadine
195