Page 181 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 181
Dựa trên các thông tin pharmacokinetic (dược động học) và
pharmacodynamic (dược lực học) mới vê các chất đỗi kháng Hj
thế hệ đầu, ngưòi ta thấy rằng sử dụng liều ngày một lần vào
giờ đi ngủ có thể cải thiện tỷ lệ lợi ích/nguy cơ của thuôc như
tạo ra sự giảm triệu chứng mà ít ảnh hưởng đến chức năng của
thần kinh trung ương. Sự phong bế Hj ngoại biên kéo dài 24
giờ sau khi sử dụng thuốc, nhưng tác động lên CNS mâ't đi sau
8 giò. Cách sử dụng tiết kiệm tiền này cần được nghiên cứu
tiếp tục trước khi được áp dụng rộng rãi. Một sô" chất đốì
kháng Hj thế hệ đầu như triprolidine và tripelennamine đã
không còn được sử dụng trong lâm sàng do chúng có thời gian
bán đào thải ngắn, nên một ngày cần phải sử dụng tới 3-4 lần
mà tính hiệu quả lại thâ'p và tỷ lệ tác dụng gây ngủ và tác
dụng phụ khác lại cao.
b. Các chất đối kháng Hj thế hệ hai
- Đo: hầu hết các chất đối kháng thế hệ 2 hiện có ngày
nay, ngoại trừ cetirizine và levocabastine, chuyển hóa bằng cách
oxy hóa và/hoặc glucuronidat hóa trong hệ men cytochrome
P450 của gan. Chúng có mặt ồ huyết thanh với nồng độ thấp.
Ngày này chúng được định lượng bằng các xét nghiệm miễn dịch
có đánh dấu phóng xạ (RĩAS), trong đó có thể có hoạt tính phản
ứng chéo của chất chuyển hóa có hoạt tính với chất ban đầu
(parent compound): chất chuyển hóa terfenadine acid (chất chuyển
hóa I của terfenadine) vối terfenadine, desmethylastemizole và 6-
hydroxydesmethylastemizole với astemizole, descarboethoxy-
loratadine với loratadine. Người ta cũng sử dụng các phương
pháp chụp sắc ký HPLC (high performance liquid
chromatography) để đo các chất đốì kháng Hj thế hệ hai sau khi
cô" ý sử dụng quá liều, khi đó nồng độ trong huyết thanh cao,
hoặc để đo các chất chuyển hóa của các chất đối kháng ỉ ỉ ị , các
chất chuyển hóa nàý có thể có nồng độ cao hơn nhiều so với chất
ban đầu (bảng 4). Ngày nay chỉ có mỗi một cha't đốỉ kháng Hi
thế hệ hai có thể dễ dàng đo được bằng HPLC hoặc bằng
phương pháp chụp sắc ký GLC (gas liquid chromatography) sau
183