Page 186 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 186
có sử dụng mẫu Emax cho thấy có sự chậm trễ trong phản ứng so
vối nồng độ trong huyết thanh. Sự chậm trễ phản ứng này có
thể không phải là do sự chậm trễ của thuốíc đến được da, vì khi
người ta đo nồng độ các chất đối kháng Hj trong da ỏ động vật
thí nghiệm sau khi sử dụng một liều chất đối kháng, ngưòi ta
thấy rằng nồng độ các chất đối kháng Hj ở da cũng cao, thậm
chí cao hơn nồng độ thuổc trong huyết thanh trong toàn bộ 12
giò xét nghiệm.
Các tác động kháng histamine tối đa của các chất đối
kháng Hi diễn ra vài giò sau khi đã đạt được nồng độ đỉnh
điểm trong huyết thanh và có thể kéo dài thậm chí khi nồng độ
trong huyết thanh của chất ban đầu (parent compound) đã hạ
tới mức thấp nhất có thể phát hiện được. Sự kéo dài tác động
này có thể là do sự có mặt của các chất chuyển hóa có hoạt tính
và/ hoặc tỷ lệ nồng độ trong mô/nồng độ trong huyết thanh cao.
Do vậy, có các lý do về pharmacokinetics và dược lý học để sử
dụng các chất đối kháng trước khi dự tính có phản ứng dị
ứng xảy ra, nếu có thể, để đạt được hiệu quả tối đa. Thời gian
tác động (độ dài thời gian tác động) của một liều thuổc đổi
kháng được đánh giá một cách chủ quan bằng sự ức chế các
triệu chứng như ngứa da hoặc mũi, hắt hơi, và chảy nước mũi
hoặc đánh giá một cách khách quan bằng sự ức chế phản ứng
sần và đỏ ngoài da do histamine. Thời gian tác động này dài
hơn nhiều so với thời gian tính toán từ thòi gian bán thải của
thuốc khỏi huyết thanh, đối với terfenadine, loratadine và
cetirizine thời gian tác động kéo dài tới khoảng 24 giò sau khi
có sử dụng một liều duy nhất. Thời gian tác động ỏ các bệnh
nhân già còn kéo còn dài hơn, ỏ các bệnh nhân suy chức năng
gan cũng vậy. Thời gian tác động của cetirizine có thể kéo dài ở
những bệnh nhân có suy chức năng thận.
Pharmacodynamics (dược lực học) của astemizole dường
như là duy nhất- Hầu hết các nhà nghiên cứu đã cồng bô" có một
khoảng thòi gian chậm tới vài ngày trước khi có sự phong bế Hj
188