Page 138 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 138
dose) theophylline tiêm tinh mạch để thu được nồng độ điều trị
trong máu. Mặc dù hấp thụ dễ dàng, nhưng các dạng thuốc như
các dung dịch để uống, viên nén không bọc, hoặc dung dịch hậu
môn có thể là một phương pháp thay thế thích hợp cho những
bệnh nhân nằm viện có các triệu chứng bệnh ít nặng hơn. Do
phát tán một cách nhanh chóng vào các dịch của cơ thể, nồng độ
thuốc trong huyết thanh (C) thu được từ liều tải đầu tiền (D) có
liên quan chủ yếu với thể tích phát tán (V) — là thể tích mà
thuốc phát tán (tan) vào :
D
c = ( 1 )
Nếu thể tích phát tán trung bình là khoảng 0,5 1/kg (khoảng
thực tế là 0,3 — 0,7 1/kg), thì mỗi một mg/kg (trọng lượng cơ thể)
theophylline sử dụng dưới dạng hấp thụ nhanh sẽ làm tăng
nồng độ thuốc trong huyết thanh lên trung bình 2 |!g/ml. Như
vậy, truyền tĩnh mạch trong vòng 15 — 30 phút 7,5 mg/kg dẫn
đến làm tăng nồng độ thuốc trong huyết thanh lên khoảng 15
^Lg/ml với khoảng dao động từ 11 đến 25 ^g/ml. Nếu cần phải
dùng thêm một liều thuốc cho một bệnh nhân đã được dùng
theophylline, thì việc tính toán nồng độ trong huyết thanh dựa
trên bệnh án là không đáng tin cậy, vì vậy cần phải xác định
ngay lập tức nồng độ thuổc trong huyết thanh. Sau đó liều
lượng bổ sung được xác đinh như sau :
D = (C mong muôn - c đo được). V (2)
Trong đó thể tích phát tán trung bình được cho là 0,5 1/kg và
liều lượng mong muốn (C mong muốn) trong huyết thanh cần
được bảo tồn (nghĩa là 10 — 15 |ig/ml), có tính đến sự dao động của
thể tích phát tán. Trong những trưòng hợp câ'p cứu, khi không có
đủ thòi gian để đo tức thòi nồng độ theophylline trong huyết
thanh, thì nói chung cần sử dụng một liều 2,5 mg/kg nếu như
bệnh nhân không có các triệu chứng nhiễm độc theophylline.
140