Page 174 - Các Giống Ngô Mới Kỹ Thuật Trồng
P. 174
Ngô nguyên hạt có nhiều sinh tố tự nhiên nhóm B như
Bl, B2, B6, Niacin và một số khoáng chât cần thiết khác, ở
loại hạt này, một số vi chất có tỷ lệ vượt trội khi so sánh với
gạo lứt. Nó là một trong những nguồn tinh bột được khuyên
dùng cho bệnh nhân tiểu đường. Chỉ số đường huyết thấp và
tỷ lệ chất xơ cao của ngô giúp tăng cường cảm giác no,
đồng thời làm chậm sự hấp thu và chuyển hóa đường. Ngô
cũng giúp tăng cường hoạt động của ruột già do tỷ lệ chất
xơ cao hơn nhiều so với gạo trắng, mì, sữa...
Công nghệ chế biến hiện nay tách ngô làm 4 thành phần:
tinh bột, mầm ngô, chất xơ và chất đạm. Sau khi được tách ly,
chất xơ và đạm sẽ được chế biến làm thức ăn chăn nuôi gia
súc, mầm ngô được tinh lọc làm dầu ngô. Chỉ có tinh bột được
sử dụng đa dạng trong chế biến thực phẩm hoặc làm bánh kẹo.
Những loại bột ngô tình chế sẽ không còn nhiều giá trị
bổ dưỡng vì không có chất xơ, đạm và một scí sinh tố,
khoáng chất vốn có nhiều trong phần vỏ ngoài của hạt và
mầm ngô. Ở Việt Nam, nhiều người có thói quen điểm tâm
bằng một gói xôi ngô. Loại ngô này tuy đã qua một lần xay
xát, phần vỏ có bị hao hụt nhưng vẫn giữ được phần nào giá
trị bổ dưỡng và tốt hơn so với tinh bột ngô.
Tốt nhất vẫn là dùng ngô nguyên hạt, chẳng hạn ngô tươi
luộc chín, nướng, hoặc ngô khô nguyên hạt xay nấu cháo.
Ngô tươi có thể chế biến thành nhiều món ăn rất phong phú:
chọn bắp còn hơi non, dùng dao bào xát mỏng hạt để nấu
chè hoặc cháo; hoặc bào mỏng hạt nấu canh với rau bồ ngót
và thịt nạc băm.
172