Page 173 - Các Đại Công Thần Trong Lich Sử Việt Nam
P. 173
MA Tú sách 'Việt Nam - đất nuớc, con nguài'
ba người con của Kế Bà Tử làm Đề đốc, Đề lãnh, Cai phủ để cai
trị và Việt hóa dân Chiêm.
Sau, một viên quan Chiêm là Hữu Trà Viên ốc Nha Thác liên
kết với một kiều dân Trung Quốc là An Ban nổi loạn ớ Đại Đồng.
Cai cơ Nguyễn Hữu Kính và Văn chức Trịnh Tường được lệnh
Chúa cùng Cai cơ Nguyễn Thắng Hd đi đánh dẹp. Đến tháng 11,
Chúa lại phục hồi dinh trấn Thuận Thành (tinh Ninh Thuận) và
cho Kế Bà Tử làm Phiên Vương, hàng năm phải nạp cống.
Nguyễn Hũu Kính lập được công to nên Quốc Chúa thăng
Chưởng cơ và cho vào trấn thủ Bình Khương dinh (Khánh Hòa).
Đầu năm Mậu Dần (1698), sau khi tiếp thu được đất Kâmpeâp -
Srêkatrey của Thuỷ Chân Lạp chuyển nhượng (là Đồng Nai - lúc
bấy giờ người Tàu gọi là Nông Nại). Nguyền Chúa bổ Thống suất
Nguyễn Hữu Kinh làm Kinh lược sứ vào để mở mang thêm. Cụ
đặt bản dinh tại Châu Đại Phố (Cù Lao Phố).
Trôn vùng này, đã có sẵn một số lưu dân Ngũ Quảng Nam
Hà vì quốc biến vào Mô Xoài (Phước Tuy) lập dinh điền sinh
sống từ đầu thế kỷ thứ 17 (thời Chúa Sãi Nguyễn Phúc
Nguyên gã Công chúa Ngọc Vạn cho Lạp Man Vương Chey
Chetta II tôn phong hoàng hậu). Đến năm 1679, lại tiếp nhận
thêm số dân nhà Minh (Trung Quốc) tỵ nạn Măn Thanh đến
kiều ngụ.
Cụ Kính đến sủa sang mọi việc, lập dân, khai quốc, tổ chức
nền hành chánh, chia xứ Dồng Nai ra làm huyện thuộc phủ Gia
Định: 1/- Phirớc Long (Biên Hòa) thuộc dinh Trấn Biên. 2/- Tân
Bình (Sài Gòn) thuộc dinh Phiên Trấn. Nơi mỗi trấn, cụ đặt một
Lưu thủ đúng đầu để cai trị, cử quan Cai bộ trông coi ngân khố,
quan Kv lục coi hình án. Cho đem đến trấn đóng một lực lượng
quân sự tinh nhuệ gồm cơ, đội, thuyền, hai ngành thuỷ lục, do
một Giám quân chỉ huy để thực hiện và bảo vệ chủ quyền của
nguừi Đại Việt. Tổng cộng số kiều dân có khoáng hai trăm ngàn