Page 50 - Bệnh Cao Huyết Áp
P. 50
thất như trong nhĩ trái rồi trong tĩnh mạch phổi, mao
mạch phổi, từ đó thấm vào tổ chức kẽ xung quanh các phế
nang và vào cả phế nang, cản trở việc trao đổi oxy và thoát
khí, làm cho bệnh nhân khó thở.
Suy tim lúc đầu chỉ tiềm tàng và khu trú bên tim
trái, bệnh nhân thường không để ý vì chỉ có khó thở
nhẹ khi gắng sức, sau tăng dần làm giảm khả năng hoạt
động thể lực, bị khó thở khi gắng sức vừa và khó thở cả
khi nghỉ ngơi. Trong cơn cao huyết áp kịch phát có thể
xảy ra cơn hen tim, nặng hơn nữa là cơn phù phổi cấp
tính đe doạ trực tiếp đến tính mạng của bệnh nhân. Suy
tim trái cũng có thể tiến triển thành suy tim toàn bộ khi
tim phải cũng bị ảnh hưởng, lúc đó sẽ thấy tĩnh mạch
cổ nổi to, gan to, phù hai chi dưới...
Tim to còn đòi hỏi máu qua động mạch vành là
động mạch nuôi cơ tim đến nhiều hơn nhưng về lâu dài
khả năng này dễ bị hạn chế vì động mạch đã bị hẹp và
xơ cứng do bản thân bệnh nhân cao huyết áp gây nên,
lại càng bị hạn chế nếu động mạch vành bị thêm vữa xơ
động mạch, hậu quả là cơ tim càng dễ bị thiếu máu, dễ
xảy ra rối loạn chuyển hoá trong cơ tim có khi nghiêm
trọng, là nguồn gốc của rối loạn nhịp tim phức tạp như
ngoại tâm thu... và làm sức co bóp cơ tim càng bị giảm.
Tai biến mạch vành như cơn đau thắt ngực sẽ xuất
hiện khi một khu vực của cơ tim bị thiếu máu nặng,
một chỗ của động mạch vành bị hẹp >75% lòng mạch
không bảo đảm cung cấp đủ máu đến các tế bào. Nguy
cơ bị nhồi máu cơ tim cũng xảy ra khi có thêm biến
chứng đông máu làm tắc mạch đó đột ngột. Cao huyết
áp đã được coi là một trong những yếu tố nguy cơ quan
trọng trong bệnh thiếu máu cơ tim do vữa xơ động
Bịì/íA cao tn)ífèi áf> oà cách điền it'ị 51