Page 365 - AllbertEstens
P. 365
cứu cái đó và làm quen với lý thuyết tương đối hẹp, đặc biệt qua
giáo trình của Langevin. Ồng đã nhìn thấy trong câu đố một
dạng hiện đại của bài toán cũ liên tục - gián đoạn hoặc phát xạ -
tạo sóng. Dần dần, những sự xích lại gần nhau đã được ông tự
đặt ra cho mình: Nguyên lý Maupertuis đôi vối hạt và quang
hình học (Hamilton - Jacobi); các số nguyên trong lý thuyết của
Bohr gợi ra sự tồn tại của một sóng liên đối với chuyển động của
các electron (các giao thoa trong lý thuyết sóng), sự có mặt của
; hằng số Planck h, và từ đó là mốì liên quan sóng - hạt do lượng
tử tác dụng. Trong cái trí tuệ được chuẩn bị lâu dài đó, "bỗng
nhiên", như ông đã viết (nhò một "tia chóp thiên tài”, như
Einstein đã viết cho Meyerson), ông đã khám phá ra rằng "cuộc
khủng hoảng của quang học" chỉ là một sự biểu hiện bề ngoài dễ
đánh lừa của tính nhị nguyên thực sóng - hạt và cần phải, trái
lại, thực hiện sự tổng hợp giữa hai lĩnh vực vật lý cho đến lúc đó
là trái ngược nhau: vật chất và ánh sáng. Ông đã có thể nói sau
này: "Ánh sáng đã vạch ra cho chúng ta thấy cái chất của các
sóng và các hạt (...), ánh sáng rút cục lại là dạng tinh tế nhất
của vật chất" [2]. Ba báo cáo ngắn đảng trong Comptes rendus
vào tháng Chín - tháng Mười năm 1923 đã đặt những nền tảng
cốt yếu; cần thấy đó là thòi điểm gồc của cơ học sóng, hoàn toàn
giông như "việc sinh ra các lượng tử", theo Laue, bắt đầu từ
thông báo nổi tiếng của Planck vào tháng Chạp năm 1900.
Mặc dầu có những lời khuyên không khuyên khích một đề
tài quá ư lý thuyết, ông vẫn cứ dành các ý tưởng đó cho Luận án
tiến sĩ của ông được bảo vệ ngày 25 tháng Chạp năm 1924, và
phát triển trong luận án đó các ý tưởng trong ba thông báo ngắn
thành những công thức tương đối tính. Langevin đã gửi một bản
luận Án cho Einstein, nhà bác học này đã có câu trả lời nổi
tiếng; "Ông ta đã vén lên được một góc của tấm màn lớn" và còn
viện dẫn luận án ngay từ tháng Giêng năm sau khi xây dựng
một lý thuyết đã trở thành thông kê Bose-Einstein.
363