Page 42 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 42
Sĩ Nhiếp còn là học giả lỗi lạc, học vấn sâu rộng, ham học thư
truyện và Xuân Thu Tả Thị truyện lại càng tinh vi. Sách Thượng
Thư thì nghĩa lớn kim cổ đều hiểu rõ ràng, đầy đủ.
Giới sĩ phu nước ta xưa rất tôn sùng Sĩ Nhiếp, thường gọi là
Sĩ vương, cho rằng nước ta có văn hoá khởi đầu từ ông này, tôn
ông là Nam Giao học tố’. Xét điều này không đúng hẳn. Từ ngày
thuộc Triệu, thuộc Tây Hán, chữ Hán đã được truyền bá sang ta
rồi. Trước thời Sĩ Nhiếp, dân ta đã có những người học hành, thi
đỗ hiếu liêm, mậu tài. Có sự kiện Sĩ Nhiếp có công mở mang việc
giáo dục rộng rãi trong xứ ta, đã đưa một sô" “thầy đồ” người Hoa
sang dạy chữ Hán. Tiếng Hán- Việt (người nước ta đọc chữ Hán)
gần giốhg với tiếng người Quảng Tín thuộc Quảng Tây, quê hương
Sĩ Nhiếp, đọc chữ Hán. Lòi sử gia Ngô Sĩ Liên nói: Nước ta được
thông thi thư, tập lễ nhạc, làm một nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ
vương, e quá đáng phần nào.
Sĩ Nhiếp là quan cai trị giỏi, ồng và các em ông có công giữ
gìn an ninh Giao Châu ta cuối đòi Đông Hán, trong khi tại Trung
Quô"c giặc cướp nổi lên khắp bô"n phương, triều đình không có uy
quyền ra đến ngoài, thiên hạ chỗ nào cũng loạn, ông là vị quan
tương đôi tô"t. Ngô Sĩ Liên, trong ĐVSKTT, chép các năm 187, 226,
thời ông cai trị xứ ta là Kỷ Sĩ vương. Nhưng tiếc thay, Sĩ Nhiếp
không phải là quan thanh liêm. Như nói ở trên, ông có đòi sông
rất đê vương, lại công hiến nhà Hán trước, nhà Ngô sau, rất hậu
hĩ. Nếu không bóp nặn, bòn mót nhiều của cải của dân ta thì của
cải ấy lấy đâu ra. Cũng như mọi quan người Hán khác, ông đã vơ
vét nhiều của dân ta, nhưng có lẽ không quá thậm tệ lắm, nên
không bị oán ghét. Do cai trị luôn trong nhiều năm, tích luỹ lại,
nên có được nhiều.
Năm 226, Sĩ Nhiếp khuất, hưởng thọ 90 tuổi, cai trị xứ ta
40 năm. Tại xã Tam Á, phủ Thuận Thành (Bắc Ninh) có phần
mộ và đền thờ. Tại xã Lũng Triều huyện Gia Bình, Bắc Ninh
cũng có đền thờ.
Vua Trần Nhân Tông phong làm Thiên cảm Gia ứng Linh
Vũ đại vương.
KỶ THUỘC NGÔ
Năm 220, nhà Đông Hán mất ngôi, Trung Quốc phân ra làm
ba nước: Bắc Nguy, Tây Thục và Đông Ngô. Đất Giao Chỉ bấy giờ
thuộc về Đông Ngô. Nhà Ngô trị nước từ năm 222 đến năm 280.
42