Page 45 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 45

Quốc  Đạt.  Năm  20  tuổi,  có  người  chị  dâu  ác nghiệt,  bà  giết  đi,  rồi
   vào ở trong rừng núi.  Có  sức mạnh,  lại chí khí mưu lược,  bà chiêu
    mộ  được  hdn  ngàn  tráng  sĩ  làm  thủ  hạ.  Người  anh  thấy  thế,  can
   bà  thì bà hảo  rằng:  “Tôi  muốn cưỡi cơn  gió mạnh,  đạp  đường sóng
    dữ,  chém  cá  tràng kình  ở biển  Đông,  quét  sạch bò cõi,  để cứu dân
    ta khỏi  nơi  đắm  đuôi, chứ không thèm  bắt chước người đòi cúi đầu
   còng lưng để làm tỳ thiếp người ta.”
         Bấy  giờ,  quan  lại  nhà  Ngô  tàn  ác.  Dân  gian  cực  khổ.  Triệu
   Quỗc Đạt khơi binh  đánh cướp các huyện quận cửu Chân.  Bà đem
    quân  sĩ  ra  đánh  giúp  anh.  Quốc  Đạt  hy  sinh.  Quân  sĩ  thấy  bà  là
   tướng can đảm, tôn làm  minh chủ. Khi ra trận, bà cưỡi voi,  mặc áo
   giáp vàng,  đi guốc gỗ,  xưng là Nhuỵ Kiều tướng quân.  Quân sĩ tôn
   bà là  Lệ  Híii bà vương, có nghĩa bà là vua miền biến rất mạnh tỢn,
   dữ dội.  (Nhuỵ Kiều tướng quân có nghĩa là tướng quân  đàn bà còn
   ít tuoi).
         Quân  Ngô sỢ hcãi,  có câu: Hoành qua đương hô dị,  đối diện bà
   vương nan,  nghĩa là  múa giáo trước  mặt ho dễ,  giáp  mặt bà vương
   mới khó.
         Lục  Dận  phải  huy  động  đại  binh  6000  quân  đi  đánh.  Bà
   chông chọi  lại  được với  quân  Ngô  năm,  sáu tháng.  Nhưng vì  quân
   ít,  thế cô,  đánh  mãi  phải  thua.  Bà  đem  quân  đến  xã Bồ Điền  ínay
   là  xã  Phú Điền thuộc huyện  Mỹ Hoà).  Thế cùng,  bà tự tử.  Bấy giò
   mới 23 tuổi.
         Nay  tại  xã  Phú  Điền,  tỉnh  Thanh  Hoá  và  xã  An  Hoá,  tỉnh
   Nghệ  An  còn  có  đền  thồ  bà.  Vua  Lý  Nam  đế  khen  bà  là  người
   trung  dũng,  lập  miếu  thờ,  phong bà  là  Bật  Chính  Anh  Liệt  Hùng
   Tài Trinh  Nhất phu  nhân.

                                KỶ THUỘC TẤN

         Bên  Trung  Quốc,  nhà  Tấn  lập  265,  đến  năm  280  chiếm  đất
   Đông  Ngô,  cai  trị  toàn  quổc  hơn  50  năm.  Sau  đó  phía  tây  bắc,  có
   những  người  nhung,  địch  nôi  nhau  chiếm  giữ  vùng  bắc  Trường
   Giang,  xưng  đê  xưng  vương,  dựng  nên  các  nước  Triệu,  Tần,  Yên,
   Lương,  Hạ,  Hán,  trước  sau  16  nước,  gọi là loạn  Ngũ Hồ.  Dòng dõi
   Tư  Mã  chỉ  còn  giữ  được  phía  đông  nam,  đóng  đô  ở  thành  Kiến
   Nghiệp  (Nam  Kinh  ngày  nay),  gọi  là  Đông Tấn,  kéo  dài  đến  năm
   420.  Đất nước ta thuộc Tấn từ nám 280 đến năm 420.
         (^uan lại nhà Tấn sang cai trị, cũng như quan lại nhà Hán, nhà
   Ngố, thỉnh thoảng mới được người tôt thì dân gian yên ổn.  Còn đa số

                                                                           45
   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49   50