Page 296 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 296
Hơn hai mươi năm thuộc Minh, kinh tế nước ta bị suy sụp do
ngoại bang bóc lột và chiến tranh liên miên. Sang triều Lê, nước
nhà đưỢc thái bình. Hầu hết dân chúng đều làm nghề nông, được
yên nghiệp làm ăn. Chính quyền chịu chăm lo nâng đỡ nông
nghiệp. Lê Thái Tổ ban hành chế độ quân điền cho binh sĩ nghèo.
Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông chăm lo việc vệ nông. Dân nghèo
đưỢc chẩn cấp trong mấy năm mất mùa. Đòi sốhg nông dân, dù là
bậc trung, cũng giản dị.
Tiểu thủ công nghiệp có phần phát đạt do tình hình kinh tế
chung. Thợ chuyên môn cùng nghề thưòng quy tụ thành phường
hay làng, sản xuất cùng thứ hàng. Các xưởng của nhà nước đúc
tiền, chế tạo vũ khí, đóng thuyền, xe, ngoài công binh, có dùng
nhiều thợ chuyên môn. Đời sông thợ thuyền thường khá hơn người
làm ruộng. Người có tay nghề dễ được khấm khá.
Thương mại tiến triển không nhiều lắm. Ngoài cảng Vân Đồn,
thương thuyền ngoại quốc còn đến cửa Còn, cửa Hội, cửa Triều thuộc
Thanh Hoa, Nghệ An. Vận tải hàng hoá thường dùng thuyền đi
đường thuỷ, ít dùng đường bộ bằng xe ngựa, bò kéo, hay sức người
đẩy. Miền núi dùng ngựa thồ. Thương nhân giầu có không nhiều, ít
được tôn trọng và không có ảnh hưởng đến chính trị. Tiểu thương
hầu hết do đàn bà, con gái vận chuyển hàng bằng gánh.
Nói về văn hoá thì ván học triều Lê thịnh, nhất là vào
thời Hồng Đức với Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lương Thế
Vinh, Tao đàn nhị thập bát tú. Việc công và thi cử vẫn dùng
chữ Hán, nhưng quôc âm đưỢc chú ý nhiều. Hàng loạt tác
phẩm thơ, ca, truyện bằng quôc âm xuất hiện, tiêu biểu là Gia
Huấn ca của Nguyễn Trãi.
Về sử, có Ngô Sĩ Liên soạn Đại Việt sử ký toàn thư, Vũ
Quỳnh soạn Đại Việt thông giám.
Kỹ thuật không có gì đáng kể.
Mỹ thuật do ít được chú ý nên bị lãng quên. Ngôi điện một
trám nóc gọi là cửu trùng đài do Vũ Như Tô dựng có thể là một
kiến trúc mỹ thuật, tiếc rằng bị phá huỷ ngay.
296