Page 54 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 54

mái chèo, bánh  lái, trên tất cả trang trí, và ở mũi tên nữa. Trên  mặt trống
         cũng thấy hình vẽ ấy, với vành khuyên, lông cánh chim, khiến người ta có
         cảm  tưởng  cái  trống có đức  tính  siêu  hình  của các  hình vẽ  nhắc đi  nhắc
         lại  nhiều  lần.  Trên  tang  trống  cũng  thấy hình  bóng  nửa người  nửa chim.
         Chắc  hẳn tất  cả những  hình  vẽ  ấy  có quan  hệ  với  tín  ngưỡng  thần  bí và
         nghi lễ gì đầy vẻ ma thuật của một đoàn thể cổ xưa.
              L.Pinot đã kết luận về trống đồng kiểu Hà Nội rằng:
               "Những đồ đồng xưa phô hủy hình ảnh một dân tộc canh nông, săn
         hắn, thuỷ thủ thờ vật tổ mà cách ăn mặc không còn thấy ở Đônq Dươníị,
         nhưng trái lại, lại thấy ở trên các hải đảo Thái Bình  Dương.  Phải chăm>
         chính đấy lù dân tộc Indonésien mà về ngôn  Hiịữ chủmị tộc đã từng sốníỊ
         trân bán dào Đông Dương rồi hổ hán đảo lại cho dân mới đến dể di sang
         những quần đáo trong Thái Bình Dương? Trên hán dáo Đông Dươn^ chỉ
         còn  lại  những dấu  tích  về ngôn  ngữ cùng phong tục  mà  chúng đã quên
         dần  di”.. (B.E.P.E.O.  XXỈX,  ỉ 929,  L ’Age de  bronze  au  Tonkin  et dans  le
         Nord Annanĩ, Victor Goloubew).
              Hoàng Trọng Miên trong sách Việt Nam Văn Học Toàn Thư chép:
               "Văn hoá cự thạch hi kéo dài từ thời dại dồ dá mới kỳ đến  thời đại
         dồ dỏng,  mà  ở Việt  Nam  vá  Đông  Nam Á  íỊọi  tên  chung  là  nghệ  thuật
         Dông Sơn, một địa điểm  trên hữu hạn sông Mã (Thanh Hoá) gần dây dã
         khai  quật  được  những  cổ vật  thời  ấy.  Tiêu  hiểu  nhất  cho  nền  văn  hoá
         Đông Sơn là chiếc trống đồng Ngọc Lũ (ngày nay còn ở Bảo tàng viện Hà
         Nội) với những hình khắc trổ làm sống lại một hộ lạc sơ khai làm ruộn^,
         săn  hắn,  đi  biển,  sùng  bái  vật  tổ.  Chung  quanh  ngôi  sao  nhiều  cánh  ở
         chính giữa mặt trống,  một đám nhiều người ăn  mặc dị kỳ tung tăniỊ  í>n(a
         bầy nai và loài tlĩuỷ điểu đang bay.  Họ cầm ở tay những cái xênlĩ  để iịõ
         nhịp  cho  điệu  múa.  Có  những  người  thổi  kền  và  đánh  trốnq  hoù  nhịp.
         Cạnh nhà sàn, có những người mang lông chim phấp phới daiĩíỊ cầm chầy
         giã gạo như cùng hoà điệu chung. Vòng quanh mặt trống dồng manẹ hình
         những chiêc thuyền chở cúc chiến sĩ mang rìu, cung tên và lao, trên n^ười
         giắt  những  lông  chim  dài.  Quang  cành  các chiếc  thuyền  này  giốníỊ  như
         chiếc  thuyền  dưa  linh  hồn  người về cõi cực  lạc của  giống dân  Dayak  ở
         dảo  Bornéo  (Nam  Dương)  ngày  nay  còn  cử hành  trong  tang  lễ.  Chiếc
         thuyền  này  về sau  có  lẽ phối hợp  với ảnh  hưởng đạo  Phật mà  thành  ra
         chiếc thuyền bát nhã hình rồng chở hổn người về cõi Tây phương.
               "Theo  nhà  nữ khảo  cổ Colani  thì  hình  ảnh  chạm  trên  trốnq  dồng
         chứng  tỏ những di  tích  của  sự thờ cúng mặt  trời.  Chung quanh  ngôi sao
         chiếu sáng chính giữa, hình ảnh của mặt trời, người, nai và chim cùng theo
         một điệu múa xoay tròn của trái dất quanh mặt tr()i soi sáng muôn loài.
         56
   49   50   51   52   53   54   55   56   57   58   59