Page 268 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 268
có loại thợ tàm da đôns nhâì tới 13 triệu, loại chiến sĩ miền Bấc 11 triệu,
loại chăn cừu và thợ làm vườn 10 triệu, loại dân cày 6 triệu với độ 60 loại
khác đỏng hơn I triệu.
Những người cùng dân dơ dáy Parias là những kẻ bị truất khỏi
những thế cấp người trong xã hội, hoặc do kết quả những cuộc hôn nhân
bất hợp pháp giữa người ở những thế cấp khác nhau, hoặc những cuộc
hôn nhân trái với quy lệ, hoặc thiếu sót bổn phận trong những lễ tục. Đó
là những kẻ gần giống như bị rút phép thông công trong tôn giáo Gia Tô.
Những người này không thuộc vào thế cấp nào trong đó lối sống có
quy luật định đoạt sán nên họ được tự do hơn mọi người An Độ khác.
Không có gì cấm cản họ ăn thịt uống rượu, cũng không có lễ tục nào bắt
họ tắm rửa, mà cũng không nghề nào là cấm đối với họ. Họ thường sống
trong những diều kiện tồi tệ, bẩn thỉu kinh khủng, ăn cả những xác thú
vật chết và say sưa be bét.
Vì vậy. những người ở các thế cấp khác trong xã hội sợ phải tội nên
kinh tởm họ, cấm họ đến lấy nước ở cùng một nguồn suối với người ta,
không cho họ đến nhà mình, không cho họ đến nơi thờ tự, không cho con
cái họ học cùng trường với những trẻ con nhà Bà La Môn v.v... ơ một vài
địa phương; người ta còn cấm họ đi lại trên những đường lớn và phải
đứng xa người ta từ 10 đến 20 mét"’.
Tuy nhiên, trong thế cấp người Parias lại chia ra thật nhiều hạng
nữa để cho trong cùng một loại người dơ dáy không ai dám gần, lại có
những kẻ dơ dáy đến chính người dơ dáy cũng không dám gần nữa.
M.Monnier William đã nhận xét thấy tại Ân Độ không có người nào
là tủi nhục vì thế cấp của mình, và cả người Parias hèn mọn nhất cũng rất
hãnh diện ở trong thế cấp ấy và cũng ước mong giữ mãi như người Bà La
Môn giữ cấp bậc của mình vậy*^’.
Ngoài hạng người Parias này, dưới cùng còn một loại người ngoại
nhân Mlecchas nữa, trình độ tri thức thấp kém, với những kẻ bị đuổi ra
khỏi các dẳng hạng người không được xếp lại vào đàu. Trong số ấy gồm
cả nhũ'ng người ngoại quốc, người phương Tây, du khách, công chúa và
cá toàn quyền đại thần Anh nữa.
Chúng ta hiểu người Ấn Độ Bà La Môn như vậy thì sẽ biết rõ người
Làm Âp theo đạo Bà La Môn ấy ở thế kỷ thứ II.
Jean Herbert - Spiìitiialité Hincloiie, pp. 182-90, Albin Michel, Paris.
Sir M.Monier XVilliam - Moíleni Imliíi and ỉndians (London) 1893 p.49
279