Page 348 - Các Tổng Tư Lệnh Chiến Trường Nhật Pháp Trong Cuộc Chiến Tranh Xâm Lược Việt Nam
P. 348
Chương 8: HENRI NAVARRE 341
ngày 5-8-1953. Hình dung tììấy lực lượng tại đây sẽ được
chuyển sang Điện Biên Phủ trong nay mai, Cogny đã viết cho
Navarre: “Tôi tuyệt đối không tin giá trị của một cứ điểm để
chặn một hướng cách Luang Prabang 200km. Chúng ta có nguy
cơ tái diễn một Nà sản mới trong điều kiện tệ hại hơn". Để yên
lòng Cogny, cuối tháng 9-1953 Navarre cho mở chiến dịch Brochet
càn quét vùng đồng bằng sông Hồng. (Ngày 28-10-1953, G.M.7
và 2 tiểu đoàn cơ động càn tây nam Vĩnh Tường - Yên Lạc
thuộc Vữứi Yên. Sáu máy bay Dakota đã ném bom triệt hạ
làng Nguyệt Đức, làm 91 người chết và bị thương). Tiếp đó là
cuộc hành quân Pelican biệt kích vào bờ biển Thanh Hóa. Giữa
tháng 10-1953, Navarre mở cuộc hành quân Hải Âu gồm 6
binh đoàn, 9 tiểu đoàn pháo, 3 tiểu đoàn thiết giáp đánh vào
Ninh Bình - Nho Quan hòng ngăn chặn chủ lực của ta tiến vào
đổng bằng Bắc Bộ, đồng thời cũng là để thăm dò ý đồ của ta.
Phộ Tổng thống Mỹ Nixon đã đến tận Ghềnh để động viên úy
lạo chiến hữu. Sau 20 ngày bị thiệt hại hàng nghìn quân, lại
được tin tình báo “chủ lực Việt Minh chưa có ý định đánh vào
đồng bằng”, Navarre vội vã rút quân.
Ngày 10-9-1953, được Laniel thông báo: “Hoa Kỳ đã chấp
nhận khoản viện trỢ 320 triệu đôla Mỹ”, Navarre gấp rút chuẩn
bị lưc lương nhằm triển khai đánh chiếm Điên Biên Phủ. Đầu
tháng 11, Navarre đă huy động được 480.000 quân, gồm 267
tiểu đoàn, trong đó có 89 tiểu đoàn cơ động (ở Bắc Bộ có 44 tiểu
đoàn tinh nhuệ). Tướng Lauzin - người kế nhiệm tướng
Chassin, nhắc lại lời cảnh cáo của Chassin và nói rõ nếu tiếp tuc
tính chuyện chiếm đóng Điện Biên Phủ, đội quân đồn trú ở đây
phải được rút hết trước ngày 1-12. Vào lúc đó trong năm, gió
thổi từ Vân Nam về có chứa chất laterit ngăn cản hết tầm nhìn.
Ngày 11-11, đại tá Nicot - người chỉ huy vận tải hàng không