Page 203 - Các Tổng Tư Lệnh Chiến Trường Nhật Pháp Trong Cuộc Chiến Tranh Xâm Lược Việt Nam
P. 203
208 VỂ CÁC TỔNG Tư LỆNH, Tư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...
ngoại giao Mỹ: “Carpentier là con người thụ động phòng thủ
đến mức phải đặt dấu hỏi về năng lực lãnh đạo quân đội của
ông ta”.
Cho đến khi Quốc hội Pháp phê chuẩn Hiệp định Elysées
ký giữa Pháp với ngụy quyền Bảo Đại ngày 29-1-1950, Mỹ đã
thay đổi rõ rệt thái độ đối với cuộc chiến tranh xâm lược của
Pháp ở Việt Nam. Người ta còn nhớ khi kết thúc Chiến tranh
thế giới thứ hai, Ngoại trưởng Mỹ George c. Marshall đã gửi
cho đại sứ Mỹ ở Paris một bức thư tỏ ý “không tán thành Pháp
duy trì chứih sách thực dân đã lỗi thời một cách nguy hiểm ở
Đông Dương nhưng cũng không muốh một chính quyền ở một
nước thuộc địa dựa theo triết lý và tổ chức chính trị của chủ
nghĩa cộng sản”, ông tỏ ra bối rối: “Thật thà mà nói, chúng ta
chẳng có giải pháp nào để gỢi ý vâh đề này”. Cho đến năm
1949, nước Mỹ còn chia rẽ về vấn đề Đông Dương. Trong cuốn
Cracks in the Empire: Class Iníluence and State Politics in the
Vietnam War (Boston; South End Press, 1980), Paul Joseph -
giáo sư xã hội học Đại học Tufts, viết: “Dù thiếu bằng chimg,
VVashington vẫn tiếp tuc cho rằng cuộc đâu tranh chống Pháp
(ở Việt Nam) là do ý muốn và sự chỉ đạo từ Liên bang Xôviết.
Trong bức công điện gửi Thủ tướng Ramadier (Pháp), đại sứ
Mỹ vẫn sai lầm cho rằng Việt Minh là một phong trào mà “triết
lý và tổ chức chính trị đều phát khởi và bị kiểm soát bởi điện
Kremlin””. Tuy vậy, dù đã cố gắng, tình báo Mỹ vẫn không tìm
ra bằng chiíng cho thăy có mối liên hệ kiểm soát giữa Moscow
và Hồ Chí Minh. Một công điện của Bộ Ngoại giao gửi cho đại
sứ Mỹ tại Trung Quốc viết: “Bộ không có bằng chứng nào về sự
nối kết trưc tiếp giữa ông Hồ và Moscovv nhưng cho rằng có”.
Tháng 2-1950, nước Mỹ công nhận chính quyền Bảo Đại và
ngày 10-3, Truman đã thông qua khoản viện trỢ 15 hiệu đôla