Page 75 - Văn Khấn Cổ Truyền Của Người Việt
P. 75

mai táng cho trọng thể. Trước đây thòi gian hành lễ có thề từ ba đến
   10 ngày tuỳ theo khu vực. Ngày nay lễ diễn ra trong ba ngày ba đêm,
   chi phí rất tốn kém.
       Đúng ba năm, thịt cá voi rữa hết, người ta tiến hành lễ quật mộ,
   hài côt đem vào lăng thò, gọi là "thượng ngọc côt".  Ngọc cô’t được rửa
   bằng rượu trắng và phơi khô,  do một ngư dân cao tuổi phụ trách và
   được cho vào các thùng,  quách,  khạp, niêm phong cẩn thận,  đưa vào
   lăng thờ.  Theo ngư dân, khi không trúng mùa cá,  họ đến đây làm lễ
   rước ngọc cốt,  đố’ ru'Ợu trắng vào ngọc cốt,  hứng lấy và đem rưới vào
   dàn  lưới,  cầu  mong cho  đánh bắt được nhiều cá tôm.  Lăng Thuỷ Tú
   chứa hơn  100 bộ  xương cá  voi,  trong đó có hàng chục bộ  xương gần
   200 năm tuổi. Lăng An Thạnh (xã Tam Thanh, huyện Phú Quý, tỉnh
   Bình Thuận) hiện còn giữ trên 70 bộ xương cá voi, trong đó có bộ dài
   đến 25 mét (từ năm  1960) với trọng lượng cá voi trên 40 tấn,  bộ xưa
   nhất là năm  1841.
        Ngoài  việc  chôn  cất,  người  được  coi  là  "con"  cá  ông  phải  chịu
   tang trong ba năm..Tang phục thay đổi tuỳ nơi,  nhưng đều phải bịt
   khăn  điều  màu  đỏ.  Trong  khi  thọ  tang,  cử  hành  theo  nghi  lễ  cố
   truyền.  Cũng  theo  ngư  dân,  trong  thời  gian  chịu  tang  này,  người
   trưởng nam luôn mạnh khoẻ, nhưng về đường tài lợi chỉ ở mức trung
   bình. Mãn tang,  ngưòi này sẽ làm ăn thịnh vượng và gặp nhiều may
   măn.

        Kiến  trúc  của  lăng  ỏng cơ  bản  mang  dáng  dấp  một  ngôi  đình,
   vừa mang chức năng tín ngưỡng vừa mang chức năng thê tục.  Lăng
   thường được xây gần sông, biển và quay ra hướng đông. Lăng thường
   đưỢc chia làm ba phần.  Phần trước là võ ca, coi như sân khấu,  dùng
   làm  nơi  hát  tuồng,  chèo  đưa  ông,  hát  bả  trạo...  trong các  kì  hội  lễ.
   Phần giữa là chính điện, thờ ngọc cốt cá ông (xương cá voi), các bài vị
   thuỷ thần, Tiền hiền, Hậu hiền. Phần nhà sau (có những trường hỢp
   xây  ra  hai  bên),  dùng  để  hội  họp,  tiếp  khách  và  là  nơi  phục  dịch.
   Trước sân có bình phong chạm trổ long, li, quy, phượng.

        Các  sinh hoạt văn  hoá  dân  gian:  Hát bả trạo còn gọi  là  hò đưa
   linh,  chèo  cầu  ngư,  hát  bạn  chèo  đưa  ông  là  loại  hình  nghệ  thuật
   diễn xướng dân gian mang tính nghi lễ.  Hát bả trạo là gọi theo hình
   thức  diễn  xướng.  Bả  là  cầm,  nắm;  trạo  là  mái  chèo.  Trong  hát  bả
   trạo,  lời  hát  và  động  tác  múa  diễn  tả  lại  quá  trình  đi  biển  từ  lúc
   thuvền ra khơi đánh cá cho đến lúc về bến, trong hành trình đó có lúc
   vất vả chống chọi với giông bão; có lúc biển lặng trăng thanh,  quăng

                                       76
   70   71   72   73   74   75   76   77   78   79   80