Page 22 - Văn Hóa Tộc Người Nùng
P. 22
ngưòi Nùng cư trú, chỉ sau hai tỉnh Lạng Sơn và
Cao Bằng.
Từ giữa thế kỷ trước, nhất là trong vài thập
niên gần đây, người Nùng không chỉ còn sinh sông
ỏ địa bàn nông thôn miền núi, cao nguyên mà đã tụ
cư không ít ỏ các thị tứ, thị trấn, thị xã, tĩnh lỵ và
một sô" thành phô". Theo sô" liệu điều tra năm 1989,
tại thành phô" Thái Nguyên, cư dân Nùng đã có
3.768 người. Trong khi ấy, tại Thủ đô Hà Nội họ
cũng có mặt 1.037 nhân khẩu. Cũng vẫn theo sô"
liệu của nám 1989, chỉ riêng 11 tỉnh miền núi phía
Bắc, cư dân Nùng sông ở thành thị lên tới con sô"
48.711 người’. Đó là một vài nét chấm phá trong
bức tranh phân bô" dân cư hiện nay của tộc người
Nùng ở Việt Nam.
Từ xa xưa, người Nùng không có chữ viết, văn
học chủ yếu là truyền miệng. Để ghi chép như gia
phả, lồi cúng, lá sô" tử vi... đồng bào đều phải dùng
chữ Hán, mực nho, bút lông, ghi trên giấy bản. v ề
sau, dựa vào Hán tự, một sô" trí thức địa phương đã
cải biên chữ Hán thành chữ Nôm để ghi chép văn
thơ, nhưng không được phổ biến. Đặc biệt, giai
đoạn giữa thê" kỷ XX, lớp trí thức mới, có vô"n tiếng
Việt và tiếng Pháp trong cư dân Tày và Nùng đã
tạo ra chữ Tày - Nùng dưới dạng La-tinh hóa để
ghi chép trong sổ tay và viết thư từ. Tuy nhiên, do
đồng bào ít sử dụng nên thứ chữ này ngày càng
mai một, ít phô biến trong đời sông hàng ngày.
1. Khổng Diễn: Dân số và dân số tộc người ỏ Việt Nam, Sđd, tr.207.
20