Page 145 - Văn Hóa Tộc ười Khơ Mú
P. 145

-  Tờ rờ se:  Là  loại  tre  nhỏ  có  bể  ngang  thân  cây  khoảng  3-4cm.
   Loại  tre  này  thân  đặc,  gióng  dài,  mềm,  dẻo  không  dễ  gãy...  thường
   dùng để làm nan đan các đồ dùng có mỹ thuật cao kỹ thuật tinh xảo,...
   (như ếp mah,  ta rờ đen,...).
       - Choi: Loại tre này thường dùng cỡ bằng cổ tay người lớn (5-6cm).
   Tre  có thân  rắn  chắc,  kém dẻo...  có thể dùng  để làm  nan  đan  các đồ
   dùng lớn, thỏ, nhưng chắc chắn.
       -  Tờ nếch: Đây là  loại tre to được sử dụng  nhiều  hơn  cà.  Loại tre
   này có độ dẻo,  cứng vừa phải được dùng để đan  phần lớn các đổ dùng
   trong gia đình  như;  bem,  gùi,  ếp... Đây là loại tre thường được sử dụng
   nhiều nhất vi dễ khai thác, dễ chế biến, số lượng lại nhiều.
       - Hra hang: Tre này còn to hơn cả tờ nếch.  Do thân tre mỏng nên
   thường được dùng để đan phên hoặc đập dập bổ banh làm sàn nhà.
       Việc  khai  thác  nguyên  liệu  cho  nghề  đan  ỏ  đây  thường  diễn  ra
   quanh năm không có mùa vụ vì nguyên liệu sẵn, lại gần nhà... Tuy vậy,
   vói  kinh  nghiệm  khai  thác  cũng  không  kém  so  với  một  số tộc  người
   khác  (người  Việt  ở  Thái  Bình  có  câu:  Tháng  tám  tre  non  làm  nhà,
   tháng  ba  tre  già  làm  lạt'^,  người  Khơ-mú  thường  khai  thác  nhiều  vào
   khoảng từ tháng 9 đến cuối năm ám lịch. Đồng bào có quan niệm khai
   thác  vào  cuối  tháng,  tre  đỡ  bị  mọt.  Khoảng  thời  gian  nói  trên  cũng  là
   giai đoạn nông nhàn.
       Tre được đốn rồi phát sạch cành lá và chặt ra từng đoạn theo nhu
   cầu (2-3-4 gióng), bó lại và vác về nhà.  Người ta pha ra ngay thành nan
   hoặc bán thành phẩm nan vì như vậy dễ làm không hay bị gãy, nãi, bởi
   tre còn  tươi.  dẻo.  Có thể khai thác nhiều để sử dụng dần,  cũng có thể
   khai thác đến đâu dùng đến đó.
       Công  cụ  để chê  biến  nguyên  liệu  chủ  yếu  là  dao  ("véc").  Véc  là
   loại  dao to  bản  (5-6cm)  dài  khoảng  50-60cm  (loại  dao  này người Việt
   gọi  là  "dao  pha").  Loại  dao  ấy,  người  Khơ-mú  không  rèn  được,  họ
   thường mua hoặc đổi của người Hmông láng giềng.
       Cách  chế  biến  nan  chủ  yếu  là  pha  tre  thành  từng  mảnh  bỏ  hết
   mành  có  đầu  mặt.  Nhữtig  mảnh  còn  lại  pha  thành  từng  thanh  có  bề
   rộng  đều  nhau,  tuỳ theo yêu cẩu  của sản  phẩm.  Pha  xong,  chẻ thành
   nan.  Không  phải chẻ  nghiêng  (để lấy cả  cật lẫn  bụng tre)  mà  chẻ lột,
   lấy nan cật,  nan tiếp theo (tùy từng đổ đan) vồ bỏ phần bụng.  Làm nan
   là công việc của đàn ông.
       Nan chẻ xong có thể được vót qua (bằng dao hoặc dọng tre)  cho
   nhẩn, sau đó bó lại rồi ngâm cho dẻo thêm.


                                                         143
   140   141   142   143   144   145   146   147   148   149   150