Page 65 - Truy Tìm Căn Nguyên Tăng Trường
P. 65

giàu tăng trưởng nhanh hơn trong giai đoạn 1960-1999. Tuy nhiên, do sự thiên lệch
               nghiêng về các nước giàu hiện nay trong khâu tổng hợp, phân tích số liệu, nên ngay cả

               kết luận này cũng ít nhiều bị nói giảm nói bớt. Có thể thậm chí còn có những tai họa
               lớn hơn xảy ra cho các nước nghèo mà không có trong mẫu dữ liệu – chẳng hạn như

               Myanmar, Zaire (Congo), Liberia, Chad và Haiiti. Kinh tế kém phát triển khiến người

               ta khó có thể duy trì hoạt động của các cơ quan thống kê. Một ví dụ là cơ quan thống
               kê của Zaire đã phải đóng cửa năm 1999, nhưng số liệu trước đó cho thấy mức tăng
               trưởng của đất nước này trong một thời gian dài là –2,4%/năm.

               Giải thích tăng trưởng của nhóm bốn nước

               Cách đơn giản nhất để đánh giá tầm quan trọng của quá trình tích luỹ vốn là giải thích
               được tăng trưởng vốn bình quân người lao động đóng góp bao nhiêu phần trăm vào

               tăng năng suất lao động. Sự đóng góp của tăng trưởng vốn bình quân người lao động
               vào tăng năng suất lao động được tính bằng tỷ lệ phần trăm của vốn trong sản xuất

               nhân với mức tăng trưởng vốn. Như tôi đã lưu ý, tỷ trọng của vốn trong sản xuất là
               khoảng 1/3, nên nếu vốn bình quân người lao động tăng ở mức 3%, thì sự đóng góp

               của vốn vào tăng trưởng sẽ là 1%. Nếu mức tăng năng suất lao động là 3%, thì chúng
               ta sẽ nói rằng vốn chiếm 1/3 ba mức tăng năng suất lao động. Còn lại là sự đóng góp

               của các yếu tố tăng trưởng không do vốn, tức tiến bộ khoa học công nghệ. Sự đóng
               góp của tiến bộ khoa học công nghệ (mà lợi ích chính là tiết kiệm sức lao động) bằng

               tỷ trọng của sức lao động (bằng 1 trừ đi tỷ trọng vốn) nhân với mức tăng trưởng của
               tiến bộ khoa học công nghệ. Do đó, nếu mức tăng trưởng tiến bộ khoa học công nghệ

               là 3%, thì chúng ta sẽ nói rằng tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra 2% trong mức tăng
               trưởng 3% này.

               Alwyn Young của trường Kinh doanh Chicago đã áp dụng công thức tính toán trên
               cho các nước đang tăng trưởng nhanh ở Đông Á (gồm Hàn Quốc, Singapore), vùng

               lãnh thổ Đài Loan và Hồng Kông. Ông gọi đây là nhóm bốn nước. Young đi đến kết
               luận rằng tốc độ tăng trưởng thần kỳ của Đông Á chủ yếu là do tích luỹ vốn và chỉ

               một phần nhỏ là do tiến bộ khoa học công nghệ. Phát hiện gây bất ngờ lớn nhất của

               ông là đối với Singapore; đất nước có tiến bộ khoa học công nghệ phát triển ở mức
               0,2% hàng năm. Paul Krugman sau này đã công bố phát hiện này trên tạp chí Foreign
               Affairs. Ông đã đưa ra một so sánh giữa tăng trưởng nhờ sử dụng nhiều vốn của

               Singapore và tăng trưởng sử dụng nhiều vốn của Liên Xô, và điều này đã gây ra rất


                                                             65
   60   61   62   63   64   65   66   67   68   69   70