Page 288 - Tín Ngưỡng Cư Dân Ven Biển Quảng Nam
P. 288

TÍN  NGƯỠNG Cư DÀN VEN  BIỀN  QUẢNG NAM - ĐÀ NẢNG



         lắm  làng  nông  nghiệp.  Trong  tập  quán  tang  ma,  các  làng
         biển  Đà  Nẳng  hơi  khác  Quảng  Xam.  Phố  biến  trong  đám
         tang  của  ngư  dân  nhiều  làng  biển  Đà  xẵng  là  có  hò  đưa
         linh, một hình thái của hát bã trạo.

                   Vì  thế  mũi  ghe  là  chỗ  linh  thiêng,  là  nơi  thắp
         hương mỗi lần đi biển.

                  Dưới đây là  một sô" hiện tượng kiêng kỵ và  nghi  lễ
         của nghề biển hiện tồn, như một biểu hiện của tri thức dân
          gian, về cách ứng xử của con người trưốc biển.

               1,  N hững kiêng kỵ;

                1.1.  Kiêng kỵ trong ngôn ngữ
               Có  khá  nhiều  từ/  lời  ngư  dân  kiêng  nói  hoặc  không
         nói,  nhất  là  những  từ  liên  quan  đến  nghề  nghiệp,

          như:"só/zể"  gọi  là  "nhóc  "và "tô'"{ở trong lộng gọi  là  "nhóc",
          ngoài  khơi  gọi  là"  tô" ).  Gió  thổi  mạnh  thì  lại  nói  "gió  thổi
         ngọt quá", gió Đông Bắc thì gọi là "chướng cồ".  Xgư cụ được
          gọi  là  "bộ  nghề ".  Khi  mang  vác  dụng cụ  đi biển  thì  nói  là
          "mang  nghề"  hay  "dọn  nghề'  mà  kiêng  gọi  thẳng  tên  các

          dụng cụ.  Khi  nhuộm  lưối  thì  gọi  là  "nhuộm  nghề",  vá  lưói
          hay  kết  các  giàn  lưới  lại  vói  nhau  thì  gọi  là  "sương  nghề".
          Không nói  các  từ "đánh",  "bắt",  "xúc",  vì  sỢ  xúc  phạm  đến
          thần Nam Hải  và  Đông Hải  (cá  voi),  và  sỢ  những  chuyến
          sau  sẽ  không  có  cá.  Xhững  từ  ấy  được  thay  thế bằng  từ
          "múc"  hoặc  "ràm  cá".  Các  loại  cá  lớn,  khá  vất  vả  trong


                                     -  z a a   -
   283   284   285   286   287   288   289   290   291   292   293